Theo Bộ Tài chính, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, chất lượng môi trường không khí tại các thành phố lớn, một số khu công nghiệp, làng nghề ở nước ta đang ngày càng suy giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ cộng đồng, thiệt hại cho nền kinh tế và đe dọa tới môi trường.
Hiện nay, ô nhiễm môi trường không khí, nhất là tại các đô thị lớn đang có xu hướng ngày càng gia tăng nhanh, có thời điểm chất lượng ô nhiễm môi trường không khí ở mức báo động. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do hoạt động xả khí thải của các cơ sở xả thải và phương tiện giao thông vận tải.
Theo thống kê, cả nước hiện có khoảng 5,1 triệu xe ô tô và số lượng lớn xe máy đang lưu hành và có hàng chục khu tổ hợp, liên hợp trong đó tập trung nhiều dự án, loại hình sản xuất bauxite, gang thép, lọc hóa dầu, trung tâm điện lực, hàng ngày xả thải khối lượng lớn khí thải công nghiệp; có gần 120.000 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong đó có 138 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020, chưa hoàn thành xử lý triệt để; khoảng 110.000 doanh nghiệp xây dựng, hoạt động xây dựng nhà ở, khu chung cư, khu đô thị mới, cầu đường, khai thác và vận chuyển vật liệu xây dựng, phế thải diễn ra khắp nơi trong cả nước. Các cơ sở này phát sinh khối lượng lớn khí thải công nghiệp, bụi thải, tác động xấu đến môi trường.
Trong khi, phần lớn tổ chức, cá nhân xả thải gây ô nhiễm môi trường không khí chưa ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình trong bảo vệ môi trường (BVMT) không khí.
Do đó, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định phí BVMT đối với khí thải là cần thiết, nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng và Chính phủ, kiện toàn hệ thống pháp luật phí, phù hợp với đòi hỏi từ thực tiễn và nhằm từng bước nâng cao ý thức BVMT của tổ chức, cá nhân xả thải và toàn xã hội.
Được biết, về đối tượng chịu phí và người nộp phí, Dự thảo đề xuất, đối tượng chịu phí BVMT theo quy định tại Nghị định này là bụi, khí thải xả ra môi trường của các dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ quy định tại cột (2) Phụ lục XXIX ban hành kèm theo Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường và được cấp giấy phép môi trường hoặc giấy phép môi trường thành phần (gọi chung là cơ sở xả khí thải). Người nộp phí BVMT đối với khí thải theo quy định tại Nghị định này là các cơ sở xả khí thải nêu trên.
Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải của các cơ sở xả khí thải trên địa bàn quản lý.
Căn cứ tình hình thực tế quản lý, Sở Tài nguyên và Môi trường báo cáo UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phân công địa bàn, đối tượng thu phí cho Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường tổ chức thực hiện thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải của các cơ sở xả khí thải trên địa bàn.
Về phương pháp tính phí, phí bảo vệ môi trường đối với khí thải phải nộp trong kỳ nộp phí được tính theo công thức sau:
F = f + C.
Trong đó:
a) F là tổng số phí phải nộp trong kỳ nộp phí (quý hoặc năm).
b) f là phí cố định
c) C là phí biến đổi (quý). Phí biến đổi của cơ sở xả khí thải là tổng số phí biến đổi được xác định tại mỗi điểm xả khí thải.
Bộ Tài chính cho rằng, việc quy định thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải sẽ khuyến khích các cơ sơ xả thải đầu tư công nghệ giảm thiểu xả thải gây ô nhiễm môi trường, phù hợp với chủ trương của Đảng và Chính phủ về bảo vệ môi trường không khí. Phí bảo vệ môi trường đối với khí thải là khoản thu mới. Dự kiến khi thực hiện chính sách này sẽ làm tăng thêm khoảng 1.200 tỷ đồng/năm cho ngân sách Nhà nước. Số tiền này sẽ góp phần khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường không khí tại địa phương nơi có nguồn thải gây ô nhiễm môi trường không khí.