Với xu thế phát triển xanh, trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng các công nghệ xanh trong nông nghiệp, từ hệ thống tưới nhỏ giọt, công nghệ nhà kính thông minh đến việc sử dụng năng lượng tái tạo trong sản xuất. Các mô hình này đã giúp giảm lượng phát thải CO2, tiết kiệm nước tới 50%, và tăng năng suất cây trồng từ 20% đến 30%. Việt Nam cũng đang hướng tới mục tiêu giảm 9% phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với kịch bản cơ sở, đồng thời cam kết đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Để đạt được điều này, đổi mới sáng tạo xanh trong nông nghiệp đóng vai trò then chốt.
Đánh giá về chuyển đổi xanh trong nông nghiệp, tại hội thảo “Thúc đẩy Đổi mới sáng tạo Xanh trong Nông nghiệp thông qua Cơ chế Thị trường”, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết: Tăng cường nông nghiệp xanh không chỉ là một xu thế toàn cầu, mà còn là một ưu tiên trong chính sách phát triển nông nghiệp của Việt Nam, nhằm đưa nền nông nghiệp nước nhà phát triển bền vững trên nền tảng công nghệ cao và thân thiện với môi trường.
Trong những năm qua, nền Nông nghiệp hiện đóng góp khoảng 12% GDP của Việt Nam, cung cấp sinh kế cho khoảng 30% lực lượng lao động. Tuy nhiên, ngành này cũng đang đối mặt với các thách thức lớn như biến đổi khí hậu, với dự báo khu vực đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất cả nước - sẽ mất từ 500.000 đến 1 triệu ha đất nông nghiệp vào năm 2050 do nước biển dâng, gây thiệt hại hàng năm lên tới 3% GDP”. Vì vậy, nông nghiệp xanh đang nổi lên như một giải pháp tất yếu cho sự phát triển bền vững tại Đông Nam Á.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, khu vực này đang phải đối mặt với những thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu, đòi hỏi sự chuyển đổi mạnh mẽ trong ngành nông nghiệp. Việt Nam, với lợi thế là quốc gia nông nghiệp, có tiềm năng lớn để phát triển nông nghiệp xanh. Sự đầu tư vào công nghệ, cùng với lực lượng lao động trẻ và chính sách hỗ trợ của Chính phủ đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam thực hiện thành công chuyển đổi xanh trong nông nghiệp. Tuy nhiên, để khai thác hết tiềm năng này, Việt Nam cần vượt qua một số rào cản.
Một trong những thách thức lớn chính là nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao của ngành Nông nghiệp vẫn còn hạn chế, tồn tại vấn đề thiếu chuyên gia, đội ngũ có thể làm chủ công nghệ, kỹ thuật cao; ngoài ra tỷ lệ lao động nông thôn chưa qua đào tạo vẫn lớn. Những người nông dân cần được đào tạo bài bản về các phương pháp canh tác tiên tiến, quản lý đất đai bền vững và sử dụng hiệu quả tài nguyên. Bên cạnh đó, việc tiếp cận các công nghệ xanh, giống cây trồng mới và nguồn vốn đầu tư còn hạn chế.
Các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp xanh cũng gặp khó khăn trong việc kết nối với các chuyên gia, tiếp cận thị trường và mở rộng quy mô sản xuất. Thiếu hụt cơ sở hạ tầng và nguồn lực cũng là một rào cản lớn cần được giải quyết để thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp này,” – Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay.
Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thực hiện phát triển nông nghiệp xanh, bền vững, ông Todd Sanderson, Giám đốc chương trình nghiên cứu các hệ thống xã hội của ACIAR cho rằng, Việt Nam là điển hình trong thực hiện chuyển đổi xanh và hy vọng thông qua việc xây dựng chiến lược, lộ trình phát triển nông nghiệp xanh, Việt Nam sẽ đưa ra những bài học kinh nghiệm trong chuyển đổi xanh, chuyển đổi xanh trong tương lai. Từ kinh nghiệm của Australia, Ông khẳng định, phát triển nông nghiệp xanh thông qua cơ chế thị trường đóng vai trò rất quan trọng, giúp thực hiện các nỗ lực một cách hiệu quả, tăng năng suất, giảm phát thải.
Đưa ra ra những phương án giúp người nông dân, doanh nghiệp ứng dụng kỹ thuật canh tác phát thải thấp để biến lợi ích môi trường thành tín chỉ carbon có thể giao dịch trên thị trường TS. Nguyễn Thị Hải - Đại học Quốc gia Australia cho hay: Thị trường tín chỉ carbon mở ra cơ hội mới cho người nông dân. Việc ứng dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến không chỉ mang đến sản phẩm lúa chất lượng cao mà còn đem lại một số lượng tín chỉ carbon rất đáng kể khi nhu cầu của thế giới về loại tín chỉ này đang tăng cao.
Theo đó, bà cũng đề xuất các phương án hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp như: Khuyến khích thực hiện theo cơ chế tự nguyện, đây là cơ hội cho xuất khẩu lúa gạo chất lượng cao, cần xây dựng các Dự án tín chỉ carbon đăng ký với Verified Carbon Standard/ Gold Standard; tiếp đó, cần thiết lập thị trường carbon trong nước thông qua hệ thống giao dịch carbon (ETS) hoặc thuế carbon, đồng thời, phát triển hệ thống cấp tín chỉ quốc gia (quy tắc, yêu cầu, phương pháp,…). Bên cạnh đó, cần xây dựng các chính sách hỗ trợ hoạt động cấp tín chỉ carbon và thị trường giao dịch carbon; quy hoạch diện tích trồng phù hợp để áp dụng hệ thống cấp tín chỉ quốc tế (VCS/GS) và hệ thống cấp tín chỉ quốc gia./.