Từ vùng khai hoang đến vùng chè xanh: Thọ Bình vươn mình nhờ kinh tế xanh

Từng là vùng đất hoang hóa in dấu Dự án 327 những năm trước, Thọ Bình (huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa) hôm nay đang thay da đổi thịt nhờ sự hồi sinh của cây chè - loài cây tưởng chừng đã bị lãng quên. Từ một giống cây quen thuộc, chè đang trở thành điểm tựa cho phát triển kinh tế xanh, gắn kết giữa nông nghiệp sạch theo hướng VietGAP với du lịch cộng đồng và gìn giữ bản sắc quê hương.
110-1751620168.jpg
Vùng chè Thọ Bình phát triển theo hướng VietGAP, trở thành điểm tựa cho kinh tế xanh và du lịch cộng đồng gắn với bản sắc quê hương.

Hồi sinh từ Dự án 327

Từng có thời gian bị lãng quên, thậm chí bị chặt bỏ để nhường chỗ cho các loại cây trồng khác như keo, bạch đàn, cây chè ở Thọ Bình đã trải qua không ít thăng trầm. Nguyên nhân không chỉ đến từ sự thiếu ổn định về đầu ra, mà còn bởi việc chế biến còn thủ công, manh mún, sản phẩm chủ yếu tiêu thụ qua thương lái nên chưa đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Điều này khiến nhiều hộ dân dần mất niềm tin vào loại cây từng được xem là thế mạnh của địa phương.

Thế nhưng câu chuyện cây chè ở Thọ Bình không dừng lại ở đó. Kể từ năm 2016, khi giống chè PH8 được đưa vào canh tác thử nghiệm, vùng đất này bắt đầu có những chuyển biến tích cực. Giống chè mới cho năng suất cao, chất lượng búp tốt, cộng với việc người dân mạnh dạn đầu tư kỹ thuật, đưa cơ giới hóa vào khâu chăm sóc và thu hái đã tạo ra một hướng đi bài bản cho ngành chè địa phương.  

Câu chuyện hồi sinh cây chè càng có ý nghĩa hơn nếu nhìn lại quá khứ hơn ba thập niên trước, khi Dự án 327 - chương trình phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bắt đầu được triển khai tại vùng kinh tế Tây Nam Triệu Sơn vào năm 1992. Thời điểm đó, hàng trăm hộ dân từ nhiều nơi về lập nghiệp trong điều kiện vô cùng thiếu thốn. Sắn, khoai, cây lâm nghiệp là lựa chọn ban đầu. Còn chè, khi ấy chỉ là một phép thử, lại bất ngờ cho thấy sự phù hợp vượt trội với thổ nhưỡng và khí hậu vùng cao.

Ít ai ngờ rằng mảnh đất Thọ Bình hôm nay, vốn là xã Bình Sơn xưa kia, nơi có khí hậu mát mẻ, đất đai màu mỡ, lại chính là vùng chè lý tưởng. Giai đoạn 1998 - 2013, cây mía từng “lên ngôi” nhờ chính sách thu mua từ Nhà máy Đường Lam Sơn, giúp người dân ổn định thu nhập. Tuy nhiên, khi cây mía giảm sức hút, chè lại được chọn để quay trở lại và lần này, với tư thế là một cây trồng chủ lực trong chiến lược phát triển nông nghiệp xanh, bền vững của địa phương.

Từ vùng nguyên liệu đến điểm du lịch trải nghiệm

Sau một thời gian dài phát triển tự phát, manh mún, Thọ Bình bắt đầu xây dựng hướng đi bài bản cho cây chè bằng việc thành lập Hợp tác xã Dịch vụ nông lâm nghiệp Bình Sơn vào năm 2016. Mục tiêu ban đầu là phục hồi diện tích chè đang có nguy cơ mai một, đồng thời định hình mô hình sản xuất tập trung và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm địa phương.

Đến năm 2019, bước chuyển quan trọng diễn ra khi Hợp tác xã chè Bình Sơn chính thức được thành lập, tập hợp hơn 120 hộ dân tham gia trồng, chế biến chè. Không chỉ thu mua và sản xuất, hợp tác xã còn chủ động xây dựng quy trình sản xuất an toàn, triển khai truy xuất nguồn gốc sản phẩm, những bước đi cần thiết để tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường.

Cùng với đó, chính quyền địa phương phối hợp với các ngành chức năng mở các lớp tập huấn kỹ thuật, hướng dẫn sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hữu cơ, đồng thời kiểm soát chặt vật tư đầu vào, đặc biệt là thuốc bảo vệ thực vật, nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường.

Nhờ định hướng đúng đắn, đến năm 2024, diện tích chè toàn xã đã vượt mốc 400 ha, trong đó có 12 ha đạt chuẩn VietGAP, với hai sản phẩm được công nhận OCOP 3 sao cấp tỉnh. Kế hoạch năm 2025 sẽ trồng thêm 50 ha, nâng tổng diện tích lên 450 ha, với năng suất bình quân 80-100 tạ/ha, sản lượng búp khô ước đạt 250 tấn/năm, tương đương doanh thu khoảng 36-37 tỷ đồng.

Không dừng lại ở mục tiêu nâng cao giá trị sản xuất, Thọ Bình còn đặt tham vọng đưa vùng chè trở thành điểm đến du lịch trải nghiệm. Các tour hái chè, sao chè, thưởng trà và giao lưu văn hóa bản địa đang được xây dựng như sản phẩm du lịch đặc trưng, kỳ vọng sẽ thu hút 500–700 lượt khách/năm vào 2025, và tăng lên 1.000 - 1.500 lượt khách/năm vào năm 2030.

Tuy vậy, lãnh đạo xã thừa nhận vẫn còn những khó khăn. Diện tích chè còn phân tán, manh mún; liên kết giữa sản xuất chè an toàn với hoạt động du lịch chưa thực sự chặt chẽ. Muốn cây chè trở thành thương hiệu mạnh, cần đầu tư đồng bộ từ quy hoạch vùng trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, tổ chức sản xuất đến chế biến sâu và xúc tiến thương mại.

Hiện nay, xã đang tích cực mời gọi doanh nghiệp đầu tư vào các nhà máy chế biến hiện đại, ứng dụng công nghệ cao trong bảo quản, tạo ra các sản phẩm đa dạng như trà túi lọc, bột trà xanh, trà ướp hoa, không chỉ phục vụ thị trường cao cấp trong nước mà còn hướng đến xuất khẩu.

Trần Huyền