An toàn sinh học – “lá chắn” giúp ngành chăn nuôi phát triển bền vững
Nhắc đến chăn nuôi Việt Nam, nhiều chuyên gia đều chung nhận định: An toàn sinh học không còn là khái niệm mới mà đã trở thành xu thế tất yếu. Đây chính là hệ thống các biện pháp tổng hợp nhằm ngăn ngừa và hạn chế mầm bệnh xâm nhập, bảo đảm đàn vật nuôi được nuôi dưỡng trong điều kiện sạch bệnh, an toàn và ổn định. Lợi ích của An toàn sinh học không chỉ dừng lại ở việc phòng chống dịch bệnh, mà còn trực tiếp nâng cao năng suất, giảm chi phí thuốc kháng sinh, hạ giá thành sản phẩm, giúp sản phẩm chăn nuôi đáp ứng tốt hơn yêu cầu về an toàn thực phẩm và tiêu chuẩn xuất khẩu.
Thực tế cho thấy, tại nhiều địa phương, các mô hình chăn nuôi theo hướng An toàn sinh học đã và đang chứng minh hiệu quả rõ rệt. Tại xã Nam Cường (Nam Trực), bác Cao Văn Tư phát triển mô hình trang trại tổng hợp trên diện tích 1ha với ao cá, chuồng nuôi lợn, gà, vịt, chim bồ câu kết hợp trồng cây ăn quả. Bác Tư chú trọng đầu tư hệ thống cấp nước, máng ăn hợp vệ sinh, lắp đặt hệ thống làm mát cho đàn vật nuôi. Toàn bộ khu chuồng trại được khử trùng định kỳ, lối ra vào đều rắc vôi bột phòng dịch. Nhờ tuân thủ nghiêm quy trình An toàn sinh học, đàn vật nuôi của gia đình bác khỏe mạnh, ít bệnh tật, tốc độ tăng trưởng tốt. Hiệu quả kinh tế tăng từ 6-8% so với trước đây, khi chưa áp dụng phương thức này.
Bên cạnh đó, tại Hợp tác xã Nam Phong (Ân Thi, Hưng Yên), sau thiệt hại nặng nề vì dịch tả lợn châu Phi, địa phương quyết định chuyển hướng sang chăn nuôi gia cầm theo quy trình An toàn sinh học. Hiện, mỗi lứa hợp tác xã duy trì trên 3 nghìn con gà. Chuồng nuôi được lắp hệ thống làm mát, quạt thông gió, phun khử trùng định kỳ; môi trường xung quanh luôn được vệ sinh sạch sẽ. Đặc biệt, hợp tác xã còn đầu tư máy ấp trứng, chủ động nguồn giống và áp dụng đầy đủ các loại vắc xin, bổ sung men vi sinh, khoáng chất giúp gà tăng sức đề kháng. Kết quả là từ khi áp dụng An toàn sinh học, hợp tác xã không gặp dịch bệnh, gà khỏe mạnh, giảm đáng kể tỉ lệ hao hụt, bảo đảm thu nhập ổn định cho các thành viên.
Thời điểm dịch tả lợn châu Phi bùng phát trên diện rộng, trong khi nhiều trang trại điêu đứng thì trang trại của anh vẫn bình yên. Duy trì hơn 1 nghìn con lợn thường xuyên, xuất bán trung bình 15 tấn/tháng, doanh thu trên 3 tỷ đồng/năm, anh Dũng khẳng định: “Chăn nuôi theo hướng An toàn sinh học cho năng suất, chất lượng ổn định, giảm rủi ro trong sản xuất và giúp tôi yên tâm đầu tư lâu dài”.
Giải pháp để nhân rộng mô hình chăn nuôi an toàn sinh học
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, quá trình phát triển chăn nuôi theo hướng An toàn sinh học vẫn còn không ít khó khăn. Tại nhiều nơi, chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư vẫn phổ biến, khó áp dụng quy trình chuẩn. Người dân còn có thói quen mua con giống trôi nổi ngoài chợ, không rõ nguồn gốc, tiềm ẩn nguy cơ mang mầm bệnh. Một số hộ chăn nuôi tận dụng thức ăn thừa từ nhà hàng, bếp ăn tập thể cho vật nuôi, gây rủi ro lây lan dịch bệnh. Việc xử lý chất thải chăn nuôi, nhất là nuôi lợn, chưa triệt để, nhiều hộ vẫn xả thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, công tác di dời trang trại ra khỏi khu dân cư còn vướng mắc do thiếu quỹ đất và nguồn lực hỗ trợ.
Để khắc phục tình trạng này, nhiều địa phương đã chủ động ban hành các chương trình, đề án cụ thể. Tiêu biểu như tỉnh Hưng Yên đang triển khai Đề án phát triển chăn nuôi An toàn sinh học, VietGAHP giai đoạn 2020 – 2025, định hướng đến 2030. Từ năm 2020 đến nay, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức gần 90 lớp tập huấn kỹ thuật cho hơn 4.500 lượt người; hỗ trợ hơn 110 hộ chăn nuôi áp dụng quy trình An toàn sinh học và VietGAHP; trang bị 6 máy tách ép phân và gần 10 hầm biogas để xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. Nhờ đó, toàn tỉnh đã tạo ra gần 15 nghìn tấn lợn hơi, 5 nghìn tấn thịt gia cầm và trên 79 triệu quả trứng đạt chuẩn VietGAHP cung ứng ra thị trường. Hiện, hơn 120 trang trại đã được cấp giấy chứng nhận VietGAHP, tỉ lệ thụ tinh nhân tạo đạt trên 95%.
Trong thời gian tới, để nhân rộng mô hình chăn nuôi An toàn sinh học, cần sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và người nông dân. Trước hết, cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người chăn nuôi về lợi ích kinh tế và xã hội của An toàn sinh học, từng bước loại bỏ phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ, kém hiệu quả. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ tín dụng ưu đãi, khuyến khích nông dân xây dựng chuồng trại khép kín, đầu tư công nghệ xử lý chất thải, gắn chăn nuôi với bảo vệ môi trường.
Song song, cần xây dựng các chuỗi liên kết từ sản xuất – giết mổ – chế biến – tiêu thụ để bảo đảm sản phẩm chăn nuôi đạt chuẩn, có đầu ra ổn định. Việc phát triển các vùng chăn nuôi tập trung, an toàn dịch bệnh sẽ giúp ngành chăn nuôi không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, mà còn đủ điều kiện mở rộng xuất khẩu sang những thị trường khó tính như Nhật Bản, EU.
Nếu triển khai đồng bộ các giải pháp, chăn nuôi An toàn sinh học sẽ không chỉ góp phần kiểm soát dịch bệnh, bảo đảm nguồn cung thực phẩm sạch cho xã hội, mà còn nâng cao giá trị sản phẩm, ổn định sinh kế nông dân, góp phần vào mục tiêu phát triển nông nghiệp xanh và bền vững./.