PwC đề xuất giải pháp giúp doanh nghiệp giảm phát thải các-bon

Biến đổi khí hậu đang là một trong những vấn đề nghiêm trọng, là thách thức lớn đối với toàn thế giới. Nguyên nhân chính được chỉ ra là do lượng phát thải khí nhà kính có xu hướng tăng lên trong nhiều năm qua. Là một nước nông nghiệp đang phát triển về công nghiệp, Việt Nam cũng phải đối mặt với tình trạng phát thải khí nhà kính.
giam-phat-thai-1706626614.jpg
Giảm phát thải khí nhà kính để bảo vệ môi trường. Ảnh minh họa

Trước những thách thức của biến đổi khí hậu về mọi mặt của nền kinh tế, xã hội, an ninh toàn cầu, mỗi quốc gia phải chủ động thích ứng nhằm hạn chế các tác động tiêu cực, đồng thời có trách nhiệm giảm phát thải khí nhà kính theo đóng góp do quốc gia tự quyết định thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu kể từ năm 2021 trở đi nhằm giữ cho mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng 1,5 độ C vào cuối thế kỷ này.

Cùng với xu thế của thế giới, Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Chính phủ đã đưa ra cam kết cùng cộng đồng quốc tế thực hiện mục tiêu này tại Hội nghị COP 26. Đây là một mục tiêu đầy tham vọng và để đạt được cần rất nhiều nguồn lực trong nước và quốc tế, cần sự chung tay cùng thực hiện của cả nền kinh tế.

Mặc dù Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực nhằm giảm phát thải khí nhà kính, nhưng trong Báo cáo Chỉ số kinh tế Net Zero năm 2023 của PwC, Việt Nam vẫn được xếp trong nhóm các nền kinh tế có sự chuyển biến chậm trong quá trình giảm cường độ phát thải các-bon và vẫn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch để duy trì tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc 5 nền kinh tế bao gồm New Zealand, Pakistan, Hàn Quốc, Singapore và Việt Nam đã vượt mốc giảm phát thải các-bon theo mục tiêu đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC).

Ông Abhinav Goyal, Giám đốc Dịch vụ tư vấn dự án vốn và cơ sở hạ tầng, PwC Việt Nam đánh giá: “Các mục tiêu NDC được Việt Nam cập nhật năm 2022 đã cho thấy những bước tiến đáng kể trong việc ưu tiên sự phát triển bền vững. Chính phủ đã nhấn mạnh việc sử dụng năng lượng tái tạo và đưa ra những mục tiêu giảm phát thải tham vọng hơn so với các mục tiêu trước đây, qua đó phản ánh cam kết mạnh mẽ đối với việc hành động vì khí hậu. Mặc dù các nội dung NDC dường như phù hợp với tham vọng Net Zero của Việt Nam vào năm 2050, nhưng vẫn cần có nhiều hành động thiết thực hơn nữa để tăng tốc đến một tương lai đạt phát thải ròng bằng 0. Sự thay đổi này đòi hỏi có sự hợp tác hành động từ Chính phủ, thông qua các chính sách mạnh mẽ, các hướng dẫn chi tiết, bao gồm thúc đẩy hợp tác toàn cầu và các doanh nghiệp, thông qua các hoạt động kinh doanh có trách nhiệm, đầu tư xanh.

Hơn nữa, việc nắm bắt chuyển đổi sử dụng năng lượng sạch không chỉ là một yêu cầu cấp thiết về môi trường, mà còn mang lại nhiều cơ hội chưa được khai thác. Bằng việc thực hiện các mục tiêu về khí hậu, thông qua sự kết hợp hiệu quả của chính sách và các chiến lược giảm thiểu phát thải, Việt Nam có thể nhận được nhiều lợi ích tài chính từ việc thu hút đầu tư bền vững, tạo thêm việc làm và trở thành quốc gia tiên phong về công nghệ sạch, hướng tới một tương lai bền vững và phát thải các-bon thấp.

tp-hcm-1706626615.jpg
Việt Nam vẫn thuộc 5 nền kinh tế bao gồm New Zealand, Pakistan, Hàn Quốc, Singapore và Việt Nam đã vượt mốc giảm phát thải các-bon theo mục tiêu đóng góp quốc gia tự quyết định. Ảnh minh họa

Từ đó, PwC đã đưa ra đề xuất 5 hướng triển khai mà các doanh nghiệp có thể thực hiện để biến hành động vì khí hậu thành lợi thế cạnh tranh và thúc đẩy việc kiến tạo giá trị.

Một là, áp lực ngày càng tăng từ công chúng và các nhà đầu tư đối với các công ty về việc thể hiện vai trò cụ thể hay có sức ảnh hưởng trong công cuộc ứng phó với biến đổi khí hậu. Bằng việc hỗ trợ các tổ chức khác giảm lượng khí thải Phạm vi 3, doanh nghiệp không chỉ đáp ứng mong đợi của các bên liên quan, mà còn thúc đẩy việc chia sẻ giá trị và tạo ra lợi thế cạnh tranh.

Hai là, việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn (Circular Economy) có thể mang lại cơ hội tăng trưởng kinh tế cho các doanh nghiệp, ước tính có cơ hội thu được 30 - 50% giá trị trong việc tái sử dụng, tân trang và tái sản xuất.

Ba là, đầu tư vào các giải pháp dựa vào thiên nhiên là một cách tiếp cận tiềm năng nhằm tận dụng các quá trình tự nhiên để giảm lượng khí thải, tăng khả năng chống chịu và giảm rủi ro thiên tai, đồng thời duy trì tăng trưởng kinh tế.

Bốn là, tích hợp công nghệ khí hậu vào các hoạt động kinh doanh hàng ngày có thể mang lại lợi ích cho cả việc giảm phát thải và xây dựng hình ảnh doanh nghiệp. Điều này có thể đạt được thông qua việc thành lập một nhóm đầu tư mạo hiểm để đầu tư vào các công ty công nghệ khí hậu và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của những doanh nghiệp đó.

Năm là, áp dụng các phương pháp thích ứng với khí hậu dự kiến sẽ thúc đẩy tăng trưởng việc làm ở các lĩnh vực mới và tăng khả năng phục hồi của doanh nghiệp trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu./.

Hương Lan