Xuất khẩu gỗ và lâm sản đang đối diện với bài toán thiếu bền vững
Bên cạnh những kết quả đạt được, theo các chuyên gia, xuất khẩu gỗ và lâm sản cũng đang đối diện với bài toán thiếu bền vững. Ông Triệu Văn Lực - Phó cục trưởng Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, hiện một số thị trường xuất khẩu chính đồ gỗ của nước ta (EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc) vẫn còn những khó khăn về kinh tế; chính sách bảo hộ sản phẩm hàng hóa, thực hiện chặt chẽ quy định về giải trình gỗ bất hợp pháp, giảm phát thải khí nhà kính, quy định về không gây mất rừng và suy thoái rừng của Liên minh châu Âu (EUDR), điều tra về chống bán phá giá và chống trợ cấp của thị trường Hoa Kỳ và Hàn Quốc).
Bên cạnh đó, tình hình thế giới tiếp tục có những xung đột địa chính trị, biến động phức tạp, khó lường, yếu tố rủi ro, bất định gia tăng; tác động giá cước vận tải biển tăng cao dẫn đến giá gỗ nguyên liệu nhập khẩu tăng, có loại gỗ nhập tăng 40% so với năm 2023, làm giá thành sản phẩm đầu ra tăng, trong khi nhà nhập khẩu nước ngoài yêu cầu giảm giá thành sản phẩm.
Việc hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT) của các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng dăm gỗ, gỗ dán còn gặp nhiều khó khăn, do các thủ tục xác minh tới tận chủ rừng của ngành thuế cần nhiều thời gian.
Đồng thời, hậu quả của cơn bão số 3 đã gây ra thiệt hại nặng nề về người, tài sản, cây trồng, vật nuôi, các hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó lĩnh vực sản xuất lâm nghiệp cũng chịu thiệt hại rất lớn. Diện tích rừng trồng sản xuất gần 170 nghìn ha bị thiệt hại, đây sẽ làm giảm đáng kể nguồn nguyên liệu phục vụ ngành chế biến gỗ trong thời gian tới. Nhiều cơ sở sản xuất chế biến, xuất khẩu gỗ, lâm sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc bị thiệt hại, cần phải đầu tư sửa chữa, khôi phục.
Ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đã phân tích thêm về khó khăn tại các thị trường chính. Thị trường Hoa Kỳ, chiếm hơn 54% tổng giá trị xuất khẩu của ngành gỗ Việt Nam, đã chứng kiến nhiều thay đổi về chính sách thương mại. Các doanh nghiệp xuất khẩu phải đối mặt với nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại liên tiếp; trong đó, Hoa Kỳ đã tiến hành ba vụ kiện liên quan đến ngành gỗ. Thêm vào đó, với việc Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tiếp tục bị phân biệt đối xử trong các cuộc điều tra chống bán phá giá, gây áp lực lớn lên chi phí và biên lợi nhuận.
Tại thị trường EU, Quy chế Chống mất rừng (EUDR) của Liên minh châu Âu dự kiến sẽ có hiệu lực vào tháng 12/2024, đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp xuất khẩu gỗ khi phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về nguồn gốc sản phẩm và các yếu tố liên quan đến môi trường. Đồng thời, Đức cũng đã áp dụng Luật Nghĩa vụ thẩm định doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, yêu cầu các nhà xuất khẩu phải cung cấp thêm nhiều chứng nhận liên quan đến lao động và môi trường, gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thị trường Đông Bắc Á, bao gồm Hàn Quốc và Nhật Bản, cũng đã áp dụng các biện pháp mới làm tăng chi phí và rủi ro cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Hàn Quốc quyết định tiếp tục áp thuế chống bán phá giá đối với gỗ dán của Việt Nam, trong khi Nhật Bản đang triển khai hệ thống mua bán tín chỉ các-bon, yêu cầu tuân thủ các quy định khắt khe về khí thải đối với các sản phẩm gỗ.
Trước những khó khăn này, ông Lập cho rằng, giải pháp của ngành gỗ Việt Nam hiện tại và trong thời gian tới cần tập trung vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên năm trụ cột chính kỹ thuật, công nghệ sản xuất, giảm phát thải, quản trị (chuyển đổi số), xúc tiến thương mại và xây dựng tiêu chuẩn giám sát nội bộ.
Liên kết trồng rừng gỗ lớn chủ động xuất khẩu bền vững
Các chuyên gia kinh tế nhận định, để duy trì và mở rộng các thị trường xuất khẩu này, việc phát triển nguồn gỗ nguyên liệu từ các diện tích rừng được cấp chứng chỉ là điều kiện tiên quyết.
Tuy nhiên, chi phí xây dựng phương án quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng là khá cao, đặc biệt đối với các hộ nông dân có diện tích manh mún, ở vùng sâu, vùng xa. Hiện, cả nước có hơn 1 triệu chủ rừng, quản lý trên 45,5% diện tích rừng trồng sản xuất (tương đương 1,82 triệu ha), là những hộ có nguồn lực tài chính hạn chế, khó có thể tự mình huy động được nguồn vốn trong việc thực hiện cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Theo thống kê của Cục Lâm nghiệp, đến nay, cả nước đã trồng và chuyển hoá được 445.480 ha rừng trồng gỗ lớn. Trong đó, các tỉnh vùng Bắc Trung bộ đạt 234.847 ha, cao nhất trên toàn quốc, chiếm 52,7 %. Khu vực này cũng có gần 105 nghìn ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, chiếm gần 20,4% diện tích rừng được cấp chứng chỉ trong cả nước.
Vùng Bắc Trung bộ cũng đứng thứ 2 trong cả nước về thu hút doanh nghiệp hợp tác, liên kết với chủ rừng đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, chỉ sau vùng Đông Bắc, nhưng sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của vùng.
Cụ thể, diện tích rừng gỗ lớn có chứng chỉ quản lý rừng bền vững do sự hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp và chủ rừng chỉ chiếm trên 3,5% diện tích rừng trồng của cả vùng, 44% diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững của cả vùng.
Việc phát triển hợp tác, liên kết, đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững tại vùng Bắc Trung bộ vẫn còn những khó khăn, tồn tại nhất định. Theo đó, chưa có nhiều doanh nghiệp quan tâm hợp tác, liên kết với chủ rừng đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng nhận quản lý rừng bền vững và bao tiêu sản phẩm. Có thời điểm, giá bán gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững chênh không nhiều so với gỗ không có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, không tương xứng với chi phí bỏ ra để làm chứng chỉ quản lý rừng bền vững;...
Theo ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp khẳng định, Bộ NN&PTNT và các bộ, ngành địa phương sẽ tiếp tục lắng nghe ý kiến của các hiệp hội, doanh nghiệp để tham mưu, sửa đổi các quy định đối với ngành chế biến và xuất khẩu gỗ.
Sản lượng gỗ rừng trồng trong nước hiện đã đảm bảo được khoảng 75% cho nhu cầu sản xuất trong nước và sản lượng gỗ nhập khẩu đang giảm dần trong thời gian qua. Tuy nhiên, việc trồng rừng gỗ lớn, đủ chất lượng để phục vụ cho ngành sản xuất nội thất trong nước vẫn còn thiếu, trong đó, thiếu cả về số lượng cũng như sự liên kết giữa vùng trồng, vùng nguyên liệu đến các cơ sở sản xuất, đến những giải pháp để đảm bảo sinh kế cho người dân thực hiện trồng rừng gỗ lớn (vốn có thời gian chăm sóc từ 10 năm trở lên tính từ lúc trồng đến thười điểm khai thác).
Theo ông Triệu Văn Lực, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp nhận định, trong bối cảnh thế giới hiện nay, việc hợp tác và liên kết đầu tư phát triển trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững là xu hướng tất yếu và rất cần thiết đối với ngành công nghiệp chế biến gỗ.
Để thu hút hợp tác liên kết trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, các chuyên gia khuyến nghị, các địa phương cần rà soát, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, đồng thời triển khai thực hiện hiệu quả các chính hỗ trợ tạo điều kiện, thu hút doanh nghiệp, chủ rừng tham gia vào hợp tác, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Bên cạnh đó, kịp thời đánh giá, tổng kết các mô hình hợp tác, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững hoạt động có hiệu quả, làm cơ sở để nhân rộng. Đẩy mạnh các hoạt động tổ chức hội nghị, hội chợ triển lãm... nhằm quảng bá sản phẩm và xúc tiến các thành phần kinh tế tham gia hợp tác, liên kết đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững gắn với chế biến và thị trường xuất khẩu.
Nhằm đạt và vượt mục tiêu xuất khẩu gỗ và lâm sản năm 2024 là 15,2 tỷ USD, trong đó gỗ và sản phẩm gỗ trên 14,2 tỷ USD, tăng khoảng 6 % so với năm 2023, ông Triệu Văn Lực cho biết, hiện toàn ngành lâm nghiệp đang dồn lực khắc phục hậu quả do cơn bão số 3 gây ra, hỗ trợ kịp thời các đơn vị, doanh nghiệp sản xuất lâm nghiệp, chế biến xuất khẩu gỗ và lâm sản bị thiệt hại nhanh chóng ổn định lại sản xuất. Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách hiện hành, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào việc phát triển rừng trồng, chế biến gỗ và lâm sản.
Đồng thời, ông Triệu Văn Lực cũng đề xuất cần tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực để chủ động, ứng phó, giải quyết các vụ việc cạnh tranh thương mại, tổ chức theo dõi chặt chẽ, nắm bắt kịp thời những khó khăn, bất cập do cơ chế, chính sách để tháo gỡ cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ và lâm sản./.