
Hạn ngạch phát thải là gì?
Hạn ngạch phát thải khí nhà kính là lượng khí nhà kính (GHG) quy đổi ra CO₂ mà một cơ sở được phép phát thải trong một khoảng thời gian nhất định, do cơ quan quản lý nhà nước phân bổ. Đây là một trong hai tài sản chính trên thị trường carbon, cùng với tín chỉ carbon, và là loại tài sản giao dịch chủ yếu trong thị trường carbon bắt buộc – thường thông qua Hệ thống giao dịch khí thải (Emission Trading System – ETS) của các quốc gia.
Các hệ thống ETS trên thế giới thường được thiết kế theo cơ chế "Giới hạn và Giao dịch" (Cap-and-Trade). Theo đó, chính phủ thiết lập một "hạn mức phát thải" (cap) – tức tổng lượng phát thải khí nhà kính tối đa cho phép trong một giai đoạn nhất định. Từ hạn mức này, các cơ quan có thẩm quyền phân bổ hạn ngạch cụ thể cho từng cơ sở phát thải. Cơ sở chỉ được phép phát thải trong phạm vi hạn ngạch đã nhận. Nếu muốn phát thải vượt mức, họ phải mua thêm hạn ngạch từ những cơ sở còn dư thông qua thị trường ETS.
Việc phân bổ hạn ngạch phát thải là trách nhiệm của chính phủ hoặc cơ quan môi trường có thẩm quyền. Chẳng hạn, trong EU ETS, Ủy ban châu Âu (EC) thiết lập tổng hạn mức phát thải cho toàn khối, sau đó các chính phủ quốc gia thành viên sẽ phân bổ cụ thể cho các doanh nghiệp trong nước. Tại Nhật Bản, việc cấp hạn ngạch thuộc Bộ Môi trường, còn tại Trung Quốc, Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC) chịu trách nhiệm phân bổ cho hệ thống ETS quốc gia.
Quy trình cấp hạn ngạch phát thải
Quy trình cấp hạn ngạch phát thải khí nhà kính thường trải qua ba bước chính, được thực hiện theo trình tự chặt chẽ nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả. Trước tiên, chính phủ cùng các cơ quan chuyên môn sẽ xác định hạn mức phát thải quốc gia trong một chu kỳ nhất định. Việc xác định này dựa trên nhiều yếu tố, bao gồm mục tiêu và chính sách khí hậu mà quốc gia đã cam kết, tiềm năng giảm phát thải về mặt kỹ thuật trong từng lĩnh vực cụ thể, cũng như khả năng và chi phí kinh tế để thực hiện các biện pháp giảm phát thải.
Sau khi đã có hạn mức phát thải tổng thể, quốc gia sẽ tiến hành kiểm kê phát thải khí nhà kính nhằm thu thập dữ liệu và làm cơ sở khoa học cho việc phân bổ hạn ngạch phù hợp cho từng đối tượng. Đây là bước quan trọng để đảm bảo việc phân bổ không mang tính chủ quan mà phản ánh đúng thực tế phát thải của các cơ sở.
Cuối cùng, cơ quan quản lý sẽ tiến hành phân bổ hạn ngạch phát thải theo hai hình thức chính là miễn phí hoặc thông qua đấu giá. Trong hình thức phân bổ miễn phí, hạn ngạch được cấp cho doanh nghiệp dựa trên các tiêu chí như lượng phát thải lịch sử, quy mô sản xuất hoặc mức độ sử dụng năng lượng. Lượng phát thải này thường được nhân với một hệ số điều chỉnh phát thải để tính ra mức hạn ngạch phù hợp. Ngược lại, với hình thức đấu giá, một phần hoặc toàn bộ hạn ngạch sẽ được đưa ra bán công khai trên thị trường ETS, và các doanh nghiệp phải mua theo nhu cầu phát thải thực tế của mình. Hai hình thức này có thể được kết hợp linh hoạt tùy theo chiến lược quản lý phát thải của từng quốc gia.
Cấp hạn ngạch phát thải tại Việt Nam
Tại Việt Nam, việc xây dựng và vận hành thị trường carbon đang được triển khai theo Đề án phát triển thị trường carbon do Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chủ trì. Trong giai đoạn thí điểm từ 2025-2028, khoảng 100 cơ sở phát thải lớn thuộc các ngành như nhiệt điện, sắt thép, xi măng sẽ được phân bổ hạn ngạch miễn phí.
Từ năm 2029 trở đi, việc phân bổ sẽ kết hợp giữa miễn phí và đấu giá. Chủ thể được phân bổ là các cơ sở nằm trong danh mục phải kiểm kê khí nhà kính theo Quyết định số 01/2022 của Thủ tướng Chính phủ, với 1.912 cơ sở thuộc 6 lĩnh vực: năng lượng, giao thông, xây dựng, quá trình công nghiệp, nông-lâm-nghiệp và chất thải.
Sáu lĩnh vực này tương ứng do các bộ ngành quản lý, trong đó Bộ Công Thương quản lý phần lớn (chiếm 1.662 cơ sở). Các bộ có trách nhiệm thực hiện kiểm kê, xây dựng kế hoạch giảm phát thải, đo đạc, báo cáo và phân bổ hạn ngạch trong phạm vi mình phụ trách. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối, phối hợp cùng các bộ ngành và UBND tỉnh/thành phố để rà soát danh mục cơ sở phát thải và trình Thủ tướng cập nhật định kỳ hai năm một lần.
Phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở sẽ được thực hiện trước ngày 31/12/2025
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 119/2025/NĐ-CP ngày 9/6/2025, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn.
Trong đó, Nghị định 119/2025/NĐ-CP sửa đổi Điều 12 về tổ chức phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho cơ sở.
Giai đoạn 2025 – 2026
Cơ sở được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính là các nhà máy nhiệt điện, cơ sở sản xuất sắt thép, xi măng nằm trong danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng thí điểm đề xuất lượng hạn ngạch phát thải cho năm 2025 và 2026 đối với các cơ sở nêu trên, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính theo từng giai đoạn và hàng năm. Việc phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở sẽ được thực hiện trước ngày 31/12/2025.
Giai đoạn 2027 – 2028 và 2029 – 2030
Các bộ quản lý lĩnh vực đề xuất danh mục cơ sở được phân bổ hạn ngạch căn cứ vào danh mục phát thải khí nhà kính phải kiểm kê và lượng hạn ngạch phát thải hàng năm, gửi Bộ Nông nghiệp và Môi trường trước ngày 30/6/2027 (cho giai đoạn 2027–2028) và trước 30/6/2029 (cho giai đoạn 2029–2030).
Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng sẽ cập nhật danh mục cơ sở và lượng hạn ngạch từng năm gửi Bộ Nông nghiệp và Môi trường theo thời hạn tương tự. Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ chủ trì rà soát, tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và thực hiện phân bổ trước ngày 31/10/2027 và 31/10/2029 tương ứng.