
Mới đây, tại cuộc họp về "Thúc đẩy tài chính xanh hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam" do Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường phối hợp với Trung tâm Thích ứng biến đổi khí hậu và Trung hoà Carbon tổ chức. Theo các chuyên gia cho biết, hiện nay vấn đề tài chính xanh đã được luật hoá trong Luật Bảo vệ môi trường đó là tín dụng xanh và tài chính xanh.
Theo đó, Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), công cụ tín dụng xanh được các tổ chức tín dụng cho vay đối với các nhu cầu tiêu dùng, đầu tư, sản xuất kinh doanh mà không gây rủi ro đến môi trường, góp phần bảo vệ hệ sinh thái chung.
Thực tiễn, hiện nay có tới hơn 4.000 loại hình dự án đầu tư khác nhau nên công tác xây dựng danh mục đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định, yêu cầu về quản lý môi trường của Việt Nam và kế thừa kinh nghiệm quốc tế. Theo dự thảo, các dự án đầu tư trong Danh mục phân loại xanh có 8 nhóm bao gồm: Năng lượng, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên nước, nông - lâm - thuỷ sản, đa dạng sinh học, chế biến - chế tạo, dịch vụ môi trường.
Với Danh mục này, yêu cầu các doanh nghiệp cần đưa ra căn cứ cụ thể để chứng tỏ doanh nghiệp sẽ giảm thiểu tối đa các tác động tới môi trường khi triển khai bất kỳ dự án nào, dù là dự án xanh.
Cụ thể về tiêu chí, các dự án phải thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường, mang lại lợi ích môi trường và lấy yếu tố môi trường làm chủ đạo, đồng thời đáp ứng các yêu cầu của kỹ thuật. Đây chính là yêu cầu quản lý về môi trường hoặc thông số kỹ thuật của nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, thiết bị, sản phẩm, hàng hóa, chất thải, quy trình sản xuất, kinh doanh của dự án đầu tư để chứng minh dự án đáp ứng tiêu chí môi trường để được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh.

Về dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh. Trong dự thảo, Viện Chiến lược Nông nghiệp và Môi trường đề xuất theo hướng quy định tổ chức xác nhận độc lập sẽ đứng ra xác nhận dự án thuộc danh mục phân loại xanh. Cùng với đó là yêu cầu đối với tổ chức xác nhận độc lập, như có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật, có hệ thống quản lý và năng lực hoạt động đáp ứng một trong những tiêu chuẩn, chuẩn mực nhất định. Đối tượng hướng đến là các tổ chức kiểm toán hoặc tổ chức có loại hình kinh doanh đánh giá sự phù hợp.
Ở khía cạnh khác, theo báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), bằng nguồn lực trong nước, Việt Nam đặt mục tiêu giảm 15,8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường, và tỷ lệ này sẽ đạt 43,5% nếu có hỗ trợ quốc tế. Tương ứng với đó, nhu cầu tài chính lần lượt là 21,5 tỷ USD và 86,8 tỷ USD. Trong đó, hỗ trợ quốc tế chủ yếu dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, các khoản vay ưu đãi, hỗ trợ công nghệ và xây dựng năng lực.
Với cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam đã và đang thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân trong và ngoài nước, nỗ lực huy động các quỹ đầu tư nước ngoài về tăng trưởng xanh, ứng phó biến đổi khí hậu.
Theo các chuyên gia, dư nợ tín dụng xanh của Việt Nam hiện nay đang tập trung chủ yếu vào lĩnh vực năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Nhằm thúc đẩy tài chính xanh, các chuyên gia đưa ra những giải pháp trọng yếu như xây dựng chiến lược tổng thể về tài chính xanh, đảm bảo sự nhất quán với Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia. Trong đó xác định vai trò của các bên liên quan và thành lập cơ quan đầu mối quốc gia để điều phối việc thực hiện tăng trưởng xanh.
Nhìn chung, việc xây dựng Danh mục phân loại xanh và cơ chế cập nhật định kỳ cần đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp với xu thế phát triển công nghệ carbon thấp; hoàn thiện hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng./.