Theo đó, xuất khẩu ước đạt gần 38,75 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ; nhập khẩu ước khoảng 35,56 tỷ USD, tăng 39,1%. Giá trị xuất siêu nông, lâm, thủy sản gần 3,19 tỷ USD, giảm 63,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Riêng tháng 10, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt trên 3,4 tỷ USD, giảm 15,6% so với tháng 10/2020 nhưng tăng 4,2% so với tháng 9/2021.
Tính chung 10 tháng, xuất khẩu nhóm nông sản chính ước đạt gần 17,4 tỷ USD, tăng 12,7%; lâm sản chính đạt khoảng 12,8 tỷ USD, tăng 22,3%; thủy sản đạt gần 6,9 tỷ USD, giảm 0,8%; chăn nuôi ước đạt 359 triệu USD, tăng 6,1%; nhóm đầu vào sản xuất khoảng 1,4 tỷ USD, tăng 22,3%.
Nhiều sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu tăng gồm: cà phê, cao su, gạo, nhóm hàng rau quả, hồ tiêu, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn, sản phẩm chăn nuôi, tôm; sản phẩm gỗ; mây, tre, cói thảm; quế…Đặc biệt là cao su, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn tăng cả số lượng và giá trị xuất khẩu.
Riêng hồ tiêu dù số lượng xuất khẩu giảm 5,7% nhưng nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 52,9% nên giá trị xuất khẩu vẫn tăng 44,2%. Cà phê giảm 5,1% về số lượng nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng 4,1%. Những mặt hàng khác tăng giá trị như: sản phẩm chăn nuôi, tôm, sản phẩm gỗ, mây, tre, cói thảm, quế.
Còn mặt hàng giảm cả khối lượng và giá trị xuất khẩu dù giá xuất khẩu bình quân tăng là chè giảm 7,2% về số lượng và giảm 3,4% về giá trị.
Giá xuất khẩu bình quân 10 tháng nhiều mặt hàng tăng như: cao su đạt tăng 4,1%; chè tăng 28,7%; cà phê tăng 9,7%; gạo tăng 7,1%; hồ tiêu tăng 71,3%; sắn tăng 13,3%.
Về thị trường xuất khẩu, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 10 tháng của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á chiếm 42,8% thị phần, châu Mỹ 30%, châu Âu 11,4%, châu Phi 1,9%, châu Đại Dương 1,5%.
Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ đạt trên 10,8 tỷ USD, chiếm 27,9% thị phần; trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tới 68,4% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang thị trường này.
Đứng thứ hai là thị trường Trung Quốc với gần 7,5 tỷ USD, chiếm 19,3% thị phần, riêng kim ngạch xuất khẩu nhóm rau quả chiếm tới 23,4%. Thứ ba là thị trường Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt trên 2,6 tỷ USD, chiếm 6,8% và nhóm sản phẩm gỗ chiếm 43,4%.
Nhằm phát triển thị trường xuất khẩu thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thúc đẩy các hoạt động hợp tác song phương với các nước như: Nga, Thụy Sỹ, Cuba, Indonesia, Hàn Quốc…; hợp tác đa phương với các tổ chức.
Bộ chuẩn bị nội dung và làm việc với Mỹ để xây dựng kế hoạch hành động thực hiện thỏa thuận về gỗ; đàm phán trợ cấp thủy sản trong WTO và dự hội nghị Bộ trưởng WTO, đàm phán việc Anh gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Bộ cũng tiếp tục thúc đẩy mở cửa thị trường nông sản với các nước; kịp thời cung cấp các thông tin, các quy định thị trường, kiểm soát xuất nhập khẩu Việt Nam-Trung Quốc, các thông tin quy định về hạn ngạch đối với các mặt hàng nông sản thực thi Hiệp định Thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) tới các địa phương, doanh nghiệp… Đặc biệt thực hiện quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam tại thị trường Liên minh châu Âu (EU) trong bối cảnh Hiệp định EVFTA có hiệu lực.
Với thị trường trong nước, Bộ tiếp tục theo dõi, nắm bắt và tổng hợp thông tin, số liệu về giá cả, tình hình sản xuất và nguồn cung các mặt hàng nông sản tại các địa phương trong điều kiện mới và kế hoạch kết nối sản xuất, tiêu thụ đợt Tết dương lịch và Tết Nguyên đán.
Về nhập khẩu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 22,5 tỷ USD, tăng 54%. Nhóm sản phẩm chăn nuôi đạt trên 2,9 tỷ USD, giảm 0,5%. Nhóm hàng thủy sản ước trên 1,6 tỷ USD, tăng 11,7%. Nhóm lâm sản chính khoảng 2,6 tỷ USD, tăng 26,5%. Nhóm đầu vào sản xuất gần 6 tỷ USD, tăng 31%.
Hoa Kỳ lại trở thành thị trường xuất khẩu nông sản sang Việt Nam lớn nhất đạt gần 3,3 tỷ USD, chiếm 9,2% thị phần; riêng mặt hàng bông chiếm 36,4% giá trị. Tiếp theo là Campuchia đạt khoảng 3,15 tỷ USD, chiếm 8,9%; riêng mặt hàng điều chiếm gần 65%.