Nhiều tiềm năng mở rộng quy mô thương mại song phương giữa Việt Nam và Israel

"Việt Nam và Israel còn nhiều dư địa để phát triển, có nhiều tiềm năng để tiếp tục mở rộng quy mô thương mại song phương", Bộ trưởng Bộ Công thương nhận định tại Diễn đàn Kinh tế và Giao thương Doanh nghiệp Việt Nam - Israel, hôm 16/8, tại Hà Nội.
1608ky-1692174516.jpeg
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên và Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat chứng kiến lễ ký kết Biên bản ghi nhớ giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Israel.

Israel hiện là thị trường xuất khẩu đứng thứ 3, là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam tại khu vực Tây Á và được đánh giá là thị trường lớn, tiềm năng đối với hàng hóa Việt Nam tại khu vực Tây Á. Cơ cấu mặt hàng của Israel và Việt Nam có sự bổ sung lẫn nhau, không cạnh tranh trực tiếp. Điều này tạo điều kiện để Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu nhiều mặt hàng thế mạnh sang Israel, đồng thời có cơ hội tiếp cận các mặt hàng công nghệ cao của Israel, góp phần làm giảm chi phí sản xuất, kinh doanh, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.

Trong cán cân thương mại, Việt Nam luôn là nước nhập siêu từ Israel. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm như điện thoại các loại và linh kiện, thủy hải sản, hạt điều, cà phê, giầy dép, hạt tiêu, dệt may, gỗ và sản phẩm gỗ... Các sản phẩm Việt Nam nhập khẩu từ Israel là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc thiết bị và phụ tùng, phân bón các loại, hàng rau quả …

Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Israel đạt 2,2 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến Israel đạt 785,7 triệu USD, tăng 0,6%; Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Israel đạt 1,4 tỷ USD, tăng 30%; Nhập siêu của Việt Nam từ Israel có giá trị 656,5 triệu USD, tăng 99,5% so với cùng kỳ năm 2021.

Tại Diễn đàn Kinh tế và Giao thương Doanh nghiệp Việt Nam - Israel, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên bày tỏ vui mừng chứng kiến những bước phát triển vượt bậc của quan hệ Việt Nam và Israel thời gian qua, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại.

“Hai nước có nhiều tiềm năng để tiếp tục mở rộng quy mô thương mại song phương, bởi cơ cấu hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Israel cơ bản không cạnh tranh trực tiếp mà có tính bổ sung cho nhau. Việc đạt được các thỏa thuận tại tất cả các chương của Hiệp định VIFTA (nhất là cam kết mạnh mẽ của hai Bên về nâng cao tỷ lệ tự do hóa thương mại) sẽ là xung lực tích cực để thúc đẩy thương mại hai chiều tăng trưởng vượt bậc, sớm đạt mức 3 - 4 tỷ USD và cao hơn nữa trong thời gian tới”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng bày tỏ hy vọng các doanh nghiệp Israel sẽ tiếp tục nghiên cứu và sớm có các dự án đầu tư mới tại Việt Nam; bên cạnh đó khẳng định rằng Bộ Công Thương Việt Nam sẵn sàng phối hợp với Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel và Đại sứ quán Israel tại Việt Nam để hỗ trợ doanh nghiệp 2 nước triển khai hợp tác trong tương lai.

Tại Diễn đàn, đại diện Bộ Công Thương Việt Nam và đại diện Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel đánh giá tổng quan tình hình phát triển kinh tế và cơ hội hợp tác thương mại giữa doanh nghiệp Việt Nam – Israel. Nhiều khuyến nghị, hàm ý chính sách, sáng kiến có giá trị thực tiễn lớn được đề xuất nhằm củng cố quan hệ hợp tác giữa hai nước, tăng cường phát triển các lĩnh vực trọng điểm và cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp.

Trong khuôn khổ Diễn đàn, Đại biểu tham dự Hội nghị đã chứng kiến Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Israel. Bên cạnh đó, các khách mời, đại diện các doanh nghiệp phía Việt Nam và Israel cùng chia sẻ thông tin, câu chuyện thành công giữa doanh nghiệp 2 nước, định hướng phát triển trong thời gian tới.

Mới đây, vào ngày 27/7/2023, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Israel (VIFTA) đã chính thức được ký kết, đánh dấu thành quả nỗ lực không mệt mỏi của cả hai nước sau quãng thời gian 7 năm với 12 phiên đàm phán nhân dịp kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Hiệp định VIFTA được kỳ vọng tạo tiền đề thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh của mình sang không chỉ Israel mà còn có điều kiện tiếp cận các thị trường khác tại Trung Đông, Bắc Phi và Nam Âu. Ở chiều ngược lại, hàng hóa và công nghệ của Israel sẽ không chỉ có cơ hội tiếp cận với thị trường trên 100 triệu dân của Việt Nam mà thông qua Việt Nam còn có cơ hội tiếp cận thị trường các nước khu vực ASEAN, châu Á-Thái Bình Dương và các nền kinh tế lớn trong 16 FTA mà Việt Nam là thành viên.

Hương Lan