Bức tranh vận tải đường sắt những năm gần đây cho thấy nhiều nỗ lực đổi mới nhưng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Từ năm 2015 đến giữa năm 2025, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) vừa là đơn vị kinh doanh kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, vừa nắm cổ phần chi phối tại 20 doanh nghiệp quản lý, bảo trì hạ tầng.
Trong vận tải, VNR cũng sở hữu cổ phần tại Công ty CP Vận tải đường sắt - đơn vị được hình thành sau khi hợp nhất hai công ty vận tải Hà Nội và Sài Gòn cùng Công ty CP Vận tải và Thương mại đường sắt. Các doanh nghiệp này thuê sức kéo, sử dụng dịch vụ điều hành giao thông và trả phí khai thác hạ tầng cho VNR.
Trong 10 năm qua, dịch vụ vận tải đường sắt có bước cải thiện đáng kể, từng bước gắn kết với logistics, đặc biệt trong vận tải hàng hóa. Các mặt hàng truyền thống như quặng, apatit, xăng dầu vẫn là thế mạnh, bên cạnh các tuyến liên vận quốc tế sang Trung Quốc và châu Âu.
Ở mảng hành khách, nhiều đoàn tàu du lịch chất lượng cao đã xuất hiện như tàu 5 sao Hà Nội - Đà Nẵng hay tàu Hoa Phượng Đỏ Hà Nội - Hải Phòng. Với hàng hóa, các chuyến container lạnh Bắc - Nam và container liên vận qua Trung Quốc đến Trung Á, Nga, Bỉ… đã góp phần mở rộng thị trường.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy lượng khách tăng trở lại sau dịch: từ 4,5 triệu lượt năm 2022 lên 7,1 triệu năm 2024. Tuy vậy, con số này vẫn thấp hơn nhiều so với mức 9,8 triệu lượt của năm 2016 và thị phần chỉ khoảng 1% toàn ngành giao thông vận tải. Với hàng hóa, khối lượng vận chuyển duy trì quanh mức hơn 5 triệu tấn mỗi năm nhưng thị phần giảm từ 2% xuống còn 0,7%.
Cục Đường sắt Việt Nam đánh giá đây là kết quả khiêm tốn so với tiềm năng, chủ yếu do hạ tầng lạc hậu, tốc độ tàu chậm, kết nối liên phương thức chưa đồng bộ, chi phí bốc xếp và trung chuyển cao. Giai đoạn dịch Covid-19 kéo dài cũng làm hoạt động kinh doanh thêm khó khăn.
Từ thực trạng này, Cục Đường sắt nhấn mạnh, muốn đồng bộ chiến lược phát triển vận tải với định hướng chung của ngành giao thông, cần một bước đột phá về cơ chế và chính sách. Trọng tâm là hiện đại hóa hạ tầng, phát triển công nghiệp đường sắt tiên tiến, làm chủ công nghệ, đặc biệt trong chế tạo phương tiện, thiết bị và vận hành khai thác.
Tại Đại hội Đảng bộ Tổng công ty Đường sắt Việt Nam mới đây, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định ngành phải tạo sức mạnh nội sinh, bám sát Kết luận 49-KL/TW của Bộ Chính trị, hướng đến một ngành đường sắt tự chủ, độc lập và mở rộng thị trường, bao gồm cả đường sắt tốc độ cao, kết nối các khu kinh tế, đô thị và quốc tế. Theo Phó Thủ tướng, đây là thị trường đủ lớn để thúc đẩy công nghiệp xây dựng, công nghiệp đường sắt, hình thành một ngành kinh tế mới, tạo việc làm, đào tạo nhân lực và đóng góp vào tăng trưởng quốc gia.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp đường sắt hiện đại, không chỉ phục hồi cơ khí chế tạo mà còn gắn với công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số và xanh. Không dừng ở việc mua hoặc tiếp nhận công nghệ, ngành phải hướng tới chuyển giao thực chất, đồng thời chuẩn bị nguồn nhân lực và cơ chế đặc thù để thu hút nhân tài.
Cùng với cổ phần hóa, Phó Thủ tướng yêu cầu đầu tư nâng cấp các ga hàng hóa nội địa thành “cảng cạn” (ICD) đúng nghĩa, cung cấp trọn gói dịch vụ giá trị gia tăng như kho bãi, thông quan, kiểm định, đóng gói, dán nhãn… biến ga đường sắt thành “cánh tay nối dài” của cảng biển và khu công nghiệp. Ngành cũng cần mạnh dạn triển khai dịch vụ "từ cửa đến cửa" (door-to-door), liên kết chặt với vận tải đường bộ, khai thác các thị trường ngách có lợi thế như hàng siêu trường, siêu trọng, hàng nguy hiểm, chất lỏng và container lạnh.