Tuyên Quang thúc đẩy phát triển kinh tế rừng bền vững

Với những lợi thế của tỉnh, Tuyên Quang đã coi phát triển kinh tế rừng bền vững là nhiệm vụ chiến lược trong phát triển kinh tế.
trong-rung-1695828094.jpg
Tuyên Quang phát triển kinh tế rừng bền vững. Ảnh minh họa

Chia sẻ tại Diễn đàn “Liên kết doanh nghiệp thúc đẩy phát triển bền vững Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ”, ông Nguyễn Văn Sơn - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang cho biết, trong những năm qua, nhờ chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, quản lý khai thác sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên. Trong bối cảnh khó khăn của dịch bệnh, suy giảm kinh tế toàn cầu, tỉnh Tuyên Quang vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 9% trong vòng 5 năm trở lại đây. GDP bình quân đầu người từ 2005 đến nay tăng lên 11 lần.

Bên cạnh đó, Tuyên Quang đã phát huy sức mạnh, ưu thế trong phát triển kinh tế rừng. Tuyên Quang có khoảng 448 nghìn hecta đất lâm nghiệp, chiếm 76% đất tự nhiên với độ che phủ rừng đứng thứ 2 cả nước và luôn duy trì trên 65%. Đáng chú ý, rừng cấp chứng chỉ rừng bền vững để phục vụ xuất khẩu gỗ sang các nước phát triển chiếm 48.300 hecta.

Với rừng phòng hộ, Tuyên Quang đang tập trung trồng cây dược liệu dưới tán rừng phòng hộ. Hiện Tuyên Quang đang sở hữu 1000 hecta cây dược liệu trồng trong rừng phòng hộ lĩnh vực này đang thu hút nhiều sự quan tâm của các doanh nghiệp quốc tế trong lĩnh vực dược liệu. Đây cũng là hướng đi mới nhằm phát triển rừng bền vững và nâng cao thu nhập của người dân.

Về rừng sản xuất với 190 nghìn hecta, Tuyên Quang đang triển khai các hình thức khai thác như trồng 2 cây chặt 1 cây để đảm bảo tính bền vững của rừng sản xuất. Đồng thời, ông Sơn cho biết, Tuyên Quang đang có 8 nhà máy chế biến giấy, cũng như các sản phẩm về gỗ chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường phát triển.

Cùng với những kết quả đã đạt được, ông Sơn thẳng thắn thừa nhận, tỉnh Tuyên Quang nói riêng và các tỉnh thuộc vùng Bắc Bộ vẫn còn tồn tại 3 điểm nghẽn lớn đang cần tập trung cao độ là Quy hoạch, Hạ tầng và Nâng cao năng lực cạnh tranh.

Mặt khác, ông Sơn cũng đề nghị, các Bộ, ban ngành cần chú ý đến 2 nút thắt của địa phương là bảo vệ rừng đặc hộ và rừng đặc dụng. Hiện nay theo chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững và chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang khoán cho người dân bảo vệ khoảng 300-400 nghìn/hecta 1 năm. Tuy nhiên điều này sẽ không đảm bảo sinh kế cho người dân, khó giữ được rừng. Do đó, ông Sơn kiến nghị có thể nâng mức khoán cho người dân lên 800-1 triệu/ hecta rừng 1 năm để đảm bảo sinh kế cho người dân.

Ngoài ra, hiện tiềm năng thương mại về hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng là rất lớn. Nhiều doanh nghiệp và tổ chức đã đề nghị bán chứng chỉ các bon. Nhưng hiện chưa có hành lang pháp lý cho việc phát hành chứng chỉ các bon và tham gia thị trường các bon để giảm phát thải nhà kính thông qua các nỗ lực hạn chế suy thoái rừng.

Từ đó, ông Sơn cũng kiến nghị các bộ ngành tham mưu cho chính phủ sớm có khung khổ pháp lý cho vấn đề này để tỉnh có thêm phần nguồn lợi từ phát hành chứng chỉ các bon để hỗ trợ người dân, từ đó phát triển rừng bền vững.

Đông Nghi