Tổng quan về tăng trưởng xanh ở thế giới và Việt Nam hiện nay

Trước những hậu quả nặng nề từ biến đổi khí hậu, một mô hình tăng trưởng mới - tăng trưởng xanh hay tăng trưởng ít cacbon chú trọng tới sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và công nghệ thân thiện với môi trường đã hình thành. Vì vậy, tăng trưởng xanh đang là xu thế với luật chơi toàn cầu mới đang được định hình.
2911-ktx-3-1692414687.jpg
Năng lượng tái tạo đang là mối quan tâm của toàn thế giới. Ảnh minh hoạ.

 Thực hiện tăng trưởng xanh ở một số nước trên thế giới

Đến nay, nội hàm về tăng trưởng xanh, nền kinh tế xanh đã được nhiều tổ chức quốc tế, như: Uỷ ban Liên Hợp quốc về kinh tế và xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương (UN-ESCAP),Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Cộng đồng châu Âu (EU) và nhiều quốc gia trên thế giới đề cập và được hiểu ở những khía cạnh khác nhau. Nhưng có một quan điểm chung nhất là tăng trưởng xanh là quá trình tái cơ cấu hoạt động kinh tế và kết cấu hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công bằng trong xã hội.

Chính phủ Mỹ dành khoảng 150 tỷ USD trong gói kích cầu kinh tế 782 tỷ USD để đầu tư cho các lĩnh vực kinh tế xanh, nhất là năng lượng mới và tái tạo (năng lượng gió, mặt trời, hạt nhân...) và đặt mục tiêu đến năm 2025, các nguồn năng lượng tái tạo sẽ chiếm khoảng 25% sản lượng điện. Nước này đã thành lập Cơ quan triển khai năng lượng sạch (CEDA) thuộc Bộ Năng lượng, có chức năng như một “ngân hàng xanh” để huy động và giải ngân vốn đầu tư cho các chương trình năng lượng sạch. Cuối tháng 6-2009, Hạ viện Mỹ thông qua Dự luật chống biến đổi khí hậu với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính khoảng 17% vào năm 2020 so với năm 2005; áp dụng hạn ngạch khí thải và cho phép các công ty xả khí thải thấp hơn hạn ngạch có thể bán phần hạn mức khí thải không dùng hết cho các công ty khác.

Từ năm 2012 - 2025, Mỹ dành 55% tiền thu được từ mua bán hạn ngạch khí thải cho bảo vệ người tiêu dùng trước tác động tăng giá nhiên liệu, 19% cho các dự án hỗ trợ chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sạch. Cộng đồng châu Âu (EU): Năm 2008, các nước EU đã thông qua luật bảo vệ môi trường với trọng tâm năm 2020 tăng tỷ trọng sử dụng năng lượng tái tạo lên 20% và giảm 20% lượng khí nhà kính và đầu tư 0,5% GDP của EU cho việc thực hiện các mục tiêu nói trên.

Bên cạnh đó, EU còn áp dụng chế độ cấp hạn ngạch khí thải cho các ngành công nghiệp, theo đó từ năm 2013 trở đi EU bán đấu giá 60% giấy phép hạn ngạch khí thải trong lĩnh vực năng lượng và đến năm 2020 tất cả các công ty công nghiệp đều phải mua giấy phép hạn ngạch khí thải (trừ một số ngành như luyện kim, xi măng, hóa chất...). Ngoài ra, EU cũng đã ban hành Chiến lược EU 2020 với ba nội dung ưu tiên: 1. Tăng trưởng thông minh (smart growth): phát triển kinh tế dựa vào tri thức và nghiên cứu đột phá cải tiến công nghệ; 2. Tăng trưởng bền vững (sustainable growth): thúc đẩy một nền kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên, xanh hơn và có khả năng cạnh tranh cao hơn nhằm hướng tới mục tiêu bảo đảm tăng trưởng kinh tế trong khi giảm lượng tài nguyên và năng lượng sử dụng, giảm phát thải CO2;  3. Tăng trưởng toàn diện (inclusive growth): hướng tới nền kinh tế có tỷ lệ việc làm cao, đồng bộ, gắn kết giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và phát triển vùng.

Nhật Bản hướng tới tăng trưởng xanh thông qua việc ban hành và thực hiện Chiến lược tăng trưởng mới. Chiến lược tăng trưởng mới của Nhật Bản, lần đầu tiên được phê duyệt vào tháng 12-2009 và sửa đổi vào tháng 6-2010 đã đưa ra mô hình tăng trưởng dựa trên nhu cầu trong nước, đổi mới và hội nhập kinh tế mạnh hơn vào khu vực châu Á, cũng như phụ thuộc ít hơn vào đầu tư công vào kết cấu hạ tầng. Chiến lược này tính đến những thách thức của biến đổi khí hậu và dân số già của Nhật Bản. Chiến lược xác định các lĩnh vực môi trường và sức khỏe, cùng với việc tăng thời gian giải trí và du lịch, như các nguồn nhu cầu chủ yếu và là động lực chính của tăng trưởng trong tương lai, tạo việc làm.

Đặc biệt, thúc đẩy “đổi mới xanh” (thí dụ như đổi mới trong lĩnh vực môi trường và năng lượng) để hướng tới nền kinh tế cacbon thấp, là một trong những chính sách cơ bản của chiến lược này. Xanh hóa hệ thống thuế là một trong các công cụ được sử dụng để thúc đẩy các sáng kiến xanh. Nội dung cụ thể của Chiến lược này bao gồm: đầu tư xanh, nghiên cứu và triển khai, kết cấu hạ tầng, cacbon thấp, công cụ thuế, phối hợp thị trường lao động với chính sách giáo dục và hợp tác quốc tế. Để giám sát việc thực hiện Chiến lược, Nhật Bản đã thành lập “Hội đồng xúc tiến Chiến lược tăng trưởng mới” từ tháng 9-2010 do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu.

Ở Trung Quốc, khủng hoảng tài chính toàn cầu làm bộc lộ những điểm yếu của mô hình tăng trưởng kinh tế tích tụ sau 30 năm cải cách mở cửa (như cơ cấu kinh tế dựa vào gia công nhưng giá trị gia tăng không cao, tiêu hao nhiều tài nguyên, năng lượng, phụ thuộc bên ngoài về nguyên liệu, xuất khẩu, mất cân  đối nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ, v.v.), thúc đẩy Trung Quốc tiếp cận tăng trưởng xanh thông qua việc đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển năng lượng tái tạo nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng hiệu quả và bền vững hơn trên ba hướng chính:

- Hiện đại hóa các ngành, nghề chủ chốt để tiếp cận công nghệ mới. Trong gói kích thích kinh tế 586 tỷ USD, Trung Quốc coi trọng đầu tư cho đổi mới công nghệ, tái cơ cấu kinh tế, phát triển năng lượng tái tạo nhằm từng bước hướng tới phát triển xanh, chuyển dần sang mô hình tăng trưởng sử dụng hiệu quả năng lượng. Trung Quốc đã cơ cấu lại 10 ngành, nghề chủ chốt (thép, ôtô, xi măng, v.v.) nhằm tạo việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời bước đầu hiện đại hóa các ngành này để tiếp cận công nghệ xanh, nhất là các ngành gây nhiều ô nhiễm. Với ôtô, Trung Quốc chuyển hướng chiến lược sang sản xuất ôtô tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng mới; với ngành thép, khống chế  sản lượng ở mức 300 triệu tấn/năm, loại bỏ công nghệ  lạc hậu; Chuyển các ngành sử dụng nhiều lao động và công nghệ trung bình - thấp sang các tỉnh miền Tây và ra nước ngoài.

- Chấn chỉnh các ngành khai thác, tăng cường nhập khẩu tài nguyên và năng lượng, hạn chế khai thác và sản xuất trong nước nhằm chủ động ứng phó với các cú sốc năng lượng trong tương lai... Ngoài ra, để bảo vệ môi trường, Trung Quốc tiến hành quy hoạch lại sử dụng đất đô thị và nông thôn; sửa Luật Môi trường theo hướng nâng tiêu chuẩn môi trường; quy định bắt buộc tái chế trong một số ngành.

Hàn Quốc đã từng có mức tăng phát thải khí cacbon rất cao, 2 lần trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2005. Trước thực tế đó, để giảm cường độ phát thải khí nhà kính, năm 2008 Chính phủ đã ban hành Chiến lược tăng trưởng xanh, ít cacbon (2009 - 2050) với tầm nhìn trở thành nền kinh tế tăng trưởng xanh lớn thứ 7 thế giới vào năm 2020 và thứ 5 về năng lượng xanh vào năm 2050. Chiến lược đã xác định 3 mục tiêu hướng tới: giảm thiểu biến đổi khí hậu và độc lập về năng lượng; tạo ra các động lực mới cho tăng trưởng kinh tế; cải thiện chất lượng cuộc sống và gia tăng vị thế quốc gia.

Hàn Quốc đã thông qua Kế hoạch 5 năm (2009 - 2013) về tăng trưởng xanh để triển khai thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Theo kế hoạch này, 83,6 tỷ USD Mỹ (tương đương với 2% GDP) sẽ được đầu tư cho lĩnh vực biến đổi khí hậu, năng lượng, giao thông bền vững và phát triển công nghệ xanh. Việc cam kết mạnh mẽ và triển khai tích cực quá trình chuyển dịch từ mô hình tăng trưởng “kinh tế nâu” sang mô hình “kinh tế xanh” của Hàn Quốc có khả năng tạo ra một hiệu ứng tích cực tới lên các nền kinh tế khác của châu Á cũng như các khu vực khác trên thế giới. Để hiện thực hóa mục tiêu, Hàn Quốc tập trung vào xây dựng và đổi mới một số nội dung:

- Xây dựng thể chế để thực hiện các nội dung về tăng trưởng xanh. Hàn Quốc đã ban hành Luật cơ bản về tăng trưởng xanh, ít các-bon (có hiệu lực từ 14-4-2010); Thành lập Ủy ban quốc gia về tăng trưởng xanh do Thủ tướng đứng đầu, thành viên là các bộ trưởng; thành lập Viện Nghiên cứu tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI), một tổ chức liên chính phủ có mục đích xây dựng chiến lược tăng trưởng xanh ít cacbon và hỗ trợ các nước thực hiện những chiến lược này.

Thực hiện quyết tâm trở thành quốc gia đi đầu thực hiện các chính sách tăng trưởng xanh và vạch ra một chương trình nghị sự tăng trưởng xanh toàn cầu. Chiến lược hai cấp của Hàn Quốc chú trọng tới việc đối phó ngắn hạn với khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay và chuyển đổi dài hạn theo hướng tăng trưởng xanh thông qua nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh tập trung xuất khẩu.

Hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia xanh hàng đầu thế giới, phát triển công nghệ xanh xuất khẩu, Hàn Quốc chú trọng phối kết hợp với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm biến những chương trình xanh thành trợ lực cho phát triển kinh tế. Hàn Quốc lựa chọn kết hợp công nghệ cao của Nhật Bản với thế mạnh trong lĩnh vực chế tạo cùng với thị trường khổng lồ và nguồn ngoại tệ dự trữ dồi dào của Trung Quốc. Các nước Đông Nam Á cũng đang trong quá trình xây dựng một lộ trình tăng trưởng xanh quốc gia...

Như vậy, xu hướng quốc tế trên đây cho thấy rằng, tăng trưởng xanh đang là xu hướng chủ đạo trong chính sách phát triển kinh tế của các nước trên thế giới nhằm vượt qua khủng hoảng kinh tế, giảm sự lệ thuộc vào các nguồn tài nguyên vốn đang ngày một cạn kiệt, đồng thời thích ứng và góp phần giảm thiểu biến đổi khí hậu hướng tới sự phát triển bền vững.

khu-du-lich-quang-ninh-03-1-1692414827.jpg
Quảng Ninh (Việt Nam) với chiến lược phát triển du lịch xanh.

Việt Nam và những bước đi ban đầu tăng trưởng xanh

Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn về môi trường như chất lượng môi trường đang ngày càng xuống cấp: rừng, đa dạng sinh học bị tàn phá; tài nguyên khoáng sản bị khai thác cạn kiệt và sử dụng kém hiệu quả; tình trạng ô nhiễm nguồn nước, không khí, chất thải ngày một tăng và trở nên nghiêm trọng.

Nền kinh tế phát triển theo hướng “nâu hóa” sau một thời gian dài đã và đang để lại nhiều hệ lụy. Tăng trưởng kinh tế ở mức tương đối cao nhưng thiếu bền vững; tăng trưởng dựa nhiều vào tài nguyên và vốn đầu tư, dựa vào khai thác tài nguyên ở cường độ cao; công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới nên đã tiêu hao nhiều năng lượng, nước, nguyên vật liệu, dẫn đến tình trạng suy kiệt nguồn nước, các loại tài nguyên khoáng sản và môi trường bị xuống cấp, cường độ sử dụng năng lượng ngày càng tăng và cao hơn mức trung bình thế giới.

Với nhận thức, tăng trưởng xanh không chỉ là động lực thúc đẩy và phục hồi kinh tế toàn cầu, mà còn là mô hình và công cụ để thực hiện phát triển bền vững. Việt Nam đã xác định rõ rằng không có con đường nào khác ngoài lựa chọn thúc đẩy tăng trưởng xanh. Việt Nam cũng thể hiện quyết tâm theo đuổi mô hình tăng trưởng phát triển thân thiện với môi trường.

Từ năm 2012 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, và năm 2014 ban hành Chương trình hành động Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 -2020, với 66 hành động. Mục tiêu là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế thông qua áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng để sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.

Thực hiện tăng trưởng xanh với sự cân bằng hai mục tiêu về kinh tế và môi trường là sự tiệm cận đến phát triển bền vững mà trong đó ba yếu tố về kinh tế, môi trường và xã hội cần có sự hài hòa. Từ tìm hiểu về ăng trưởng xanh ở các nước trên thế giới và  từ thực tế Việt Nam, có thể rút ra các kinh nghiệm như sau:

Thứ nhất, Tăng trưởng xanh trước hết phải gắn với chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trong đó công nghiệp phải gắn với chuỗi. Hiện nay, định vị chuỗi công nghiệp của Việt Nam không rõ, trong khi phải gắn với chuỗi công nghiệp toàn cầu mới phát triển được công nghiệp hỗ trợ. Các doanh nghiệp Việt cần phải tư duy và hành động thiết thực khẳng định mình, hướng tới việc trở thành đối tác các tập đoàn lớn trên thế giới. Tương tự, cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng phát thải thấp (sử dụng hợp lý phân bón, các phụ phẩm xuất nông nghiệp...), thủy lợi (sử dụng tiết kiệm nước), áp dụng mô hình kết hợp sản xuất với bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Phải hướng đến mục tiêu tạo ra sản phẩm gắn với công nghệ cao, mang đến giá trị gia tăng cao thay vì chỉ chú trọng vào số lượng cao nhưng năng suất thấp như hiện nay.

Thứ hai, Giảm phát thải khí nhà kính thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Trong đó, cần bảo vệ và khai thác tài nguyên đất, rừng, tài nguyên nước, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng... để làm giảm phát thải khí nhà kính. Thực hiện các giải pháp công nghệ và chính sách, nhất là trong việc sản xuất và tiêu thụ năng lượng thông qua cơ chế phát triển sạch của Nghị định thư Kyoto, với sự giúp đỡ về công nghệ và tài chính từ các nước và các tổ chức quốc tế.

Thứ ba, Thực hiện kích cầu, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững. Việc phát triển sản xuất và tiêu dùng bền vững hiện nay cần có sự chung tay của các nhà quản lý, nhà nghiên cứu, cộng đồng và đặc biệt là các doanh nghiệp. Cụ thể: Xây dựng các chính sách liên quan đến sản xuất và tiêu dùng bền vững; Nâng cao nhận thức của xã hội, cộng đồng đối với sản xuất và tiêu dùng bền vững; Tạo cơ chế thúc đẩy phát triển các công nghệ, dịch vụ và sản phẩm thân thiện môi trường; Cung cấp thông tin sản phẩm cho người tiêu dùng; Phát triển mua sắm xanh, trong đó đặc biệt lưu ý đến hoạt động mua sắm công, đây là nội dung rất quan trọng mà nhiều quốc gia đã triển khai hiệu quả.

Thứ tư, Xây dựng kết cấu hạ tầng bền vững, các nhà quản lý, hoạch định chính sách cần xây dựng những “kế hoạch xanh”, không để lặp lại những công trình hạ tầng kỹ thuật dàn trải, không có hiệu quả kinh tế.

Thứ năm, cải tổ và áp dụng các công cụ thị trường theo hướng xanh hóa (thuế xanh, ngân sách xanh). Áp dụng chế độ ưu đãi thuế đối với những doanh nghiệp có hoạt động bảo vệ môi trường. Thuế tài nguyên được xem như một công cụ quan trọng, đang được áp dụng một cách rộng rãi và có hiệu quả cao nhất. Đối với thuế tài nguyên, áp dụng mức thuế suất cao hơn nữa đối với loại tài nguyên dạng thô, thuế suất thấp hơn đối với tài nguyên dạng tinh hoặc đã chế biến.

Thứ sáu, Phát triển các ngành kinh tế xanh mũi nhọn để tạo động lực mới thúc đẩy kinh tế phát triển, thêm việc làm cho xã hội, tập trung vào các ngành kinh tế có thể phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam như phát triển nông nghiệp hữu cơ; phát triển các mô hình kinh tế sinh thái; phát triển sản xuất hàng hóa và dịch vụ môi trường, tái chế chất thải, phát triển du lịch sinh thái; tái sinh rừng tự nhiên, trồng rừng ngập mặn, chắn sóng, chắn cát.

Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, hiện có một số cách tiếp cận để thúc đẩy tăng trưởng xanh, đó là cách tiếp cận theo từng khu vực của nền kinh tế, hoặc tiếp cận liên ngành xuyên suốt các lĩnh vực như sử dụng hiệu quả tài nguyên, sản xuất và tiêu dùng bền vững... Tăng trưởng xanh tuy có nhiều cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức. Đây là một quá trình lâu dài, các cấp, các ngành, doanh nghiệp cần nhận thức đầy đủ, qua đó thay đổi cách thức sản xuất, tiêu dùng theo hướng hiệu quả để thực hiện được mục tiêu trong chiến lược tăng trưởng xanh./.

Tài liệu tham khảo

1. Chính phủ: Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg, ngày 02-12-2008 phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, 2008.

2. Chính phủ: Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, 2012.

3. PGS,TS Nguyễn Thế Chinh, Đặng Quốc Thắng: Chiến lược tăng trưởng xanh: Xu hướng của thời đại, 2014.

4. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương: Một số hàm ý chính sách cho triển khai chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam, 2014.

5. Ministry of Government Legislation, Korea,Framework Act for Low Carbon, Green Growth, 2010.

6. Tổng cục Thống kê:

Ths Võ Văn Lợi