Thúc đẩy tín dụng xanh: Nhiều cơ chế cần tháo gỡ

Cùng với lộ trình và cam kết của Chính phủ tại COP26, nhiều ngân hàng có định hướng hoạt động kinh doanh nhằm hướng tới mục tiêu trở thành Net-zero Bank, nhưng trong quá trình thẩm định dự án xanh, các ngân hàng vẫn gặp nhiều vướng mắc.
ocb-2-1636596141726682396849-1694420757.webp
Trong quá trình thẩm định dự án xanh, các ngân hàng vẫn gặp nhiều vướng mắc - Ảnh minh hoạ.

Cần khoảng 380 tỷ USD/năm

Phát triển bền vững là một quá trình với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa của 3 yếu tố phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là một trong những mục tiêu mà hầu hết các quốc gia trên thế giới hướng đến.

Tài chính bền vững là sự kết hợp giữa tài chính thuần tuý với các khía cạnh về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) và sử dụng số tiền thu được cho các mục đích cụ thể hướng đến phát triển bền vững. Theo Hiệp hội Thị trường vốn quốc tế (ICMA, 2020), tài chính bền vững bao gồm tài chính khí hậu, tài chính xanh và tài chính xã hội gắn với bền vững kinh tế trong dài hạn và sự ổn định của toàn bộ hệ thống tài chính.

Tài chính xanh đang là một xu hướng trên toàn thế giới với sự tham gia của các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ của các nước cũng như hệ thống tài chính của từng quốc gia, của từng khu vực. Với cam kết đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050, giảm phát thải khí methane vào năm 2030, nhu cầu đầu tư của Việt Nam vào các dự án giảm thiểu tác động đến môi trường sẽ ngày càng lớn. Do vậy, tài chính xanh đóng vai trò vô cùng quan trọng trong mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.

Phát biểu tại “Tín dụng xanh - Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero” mới đây, bà Trần Thị Thúy Ngọc – Phó Tổng Giám đốc thường trực, lãnh đạo Phụ trách dịch vụ Phát triển bền vững và Biến đổi Khí hậu, Deloitte Việt Nam cho rằng, với mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam cần phát triển tài chính xanh để thúc đẩy đầu tư vào các dự án bền vững như năng lượng tái tạo, giao thông, kho vận và nông nghiệp. 

“Tuy rằng đây không phải là một nhiệm vụ vượt tầm với, Việt Nam vẫn đang “đau đầu” đi tìm lời giải cho bài toán giải quyết các mục tiêu quốc gia về khí hậu. Theo ước tính, Việt Nam sẽ cần khoảng 368-380 tỷ USD hay 6,8% GDP mỗi năm cho đến năm 2040 để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu. 

Đây là con số đòi hỏi rất nhiều thời gian cùng sự nỗ lực, chung tay của các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng, trong bối cảnh ngành ngân hàng Việt Nam chỉ chiếm 4,3% tổng dư nợ vào cuối năm 2022, tăng 12,9% so với năm 2021, tương đương khoảng 500 nghìn tỷ đồng (21,2 tỷ USD)”, bà Ngọc nói.

Theo lãnh đạo Deloitte Việt Nam, việc xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển tín dụng xanh được coi là chìa khóa để mở ra một nền tài chính xanh vững mạnh tại Việt Nam. Tín dụng xanh không những đảm bảo đồng thời những lợi ích đầu tư, lợi ích môi trường từ phía bên cho vay, nâng cao quản lý bền vững, xây dựng niềm tin với công chúng cho bên vay mà còn góp phần bảo tồn môi trường toàn cầu, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội thông qua việc thúc đẩy các dự án xanh.

Cần thêm nhiều cơ chế

Cùng với lộ trình và cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26, nhiều ngân hàng trong hệ thống đã và đang có định hướng hoạt động kinh doanh và danh mục cho vay nhằm hướng tới mục tiêu trở thành Net-zero Bank (Ngân hàng phát thải ròng bằng 0).

Ông Nguyễn Xuân Bắc – Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho biết, giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Đến 30/6/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt gần 528,3 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong số 12 lĩnh vực xanh NHNN hướng dẫn các TCTD cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm 45%) và nông nghiệp xanh (31%). Các TCTD đã tăng cường đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng với dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt gần hơn 2.485 triệu tỷ đồng, chiếm gần 20%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế.

Tuy nhiên, trong quá trình thẩm định dự án xanh, các nhà băng vẫn gặp nhiều vướng mắc. Ông Nguyễn Quốc Hưng - Giám đốc Ban Tài trợ dự án ngân hàng BIDV (ngân hàng đang có dư nợ cho vay lĩnh vực xanh trên 66 nghìn tỷ đồng, chiếm 4% tổng dư nợ) cho biết, hiện các TCTD vẫn chưa có cơ sở, căn cứ cụ thể trong việc xác định và phân loại dự án xanh. 

“Nguyên nhân là do Việt Nam hiện chưa có khung pháp lý, chính sách tổng thể, thống nhất liên quan đến việc triển khai tín dụng xanh như: tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh; quy định về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế... Điều này gây khó khăn cho các NHTM trong việc lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh”, ông Hưng nói.

Bên cạnh đó, hành lang pháp lý để triển khai quản lý rủi ro môi trường – xã hội, tín dụng xanh hiện vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Hiện nay Chính phủ mới chỉ ban hành Luật bảo vệ môi trường (số 72/2020/QH14) và Nghị định hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật bảo vệ môi trường (Nghị định 08/2022/NĐ-CP). Quyết định của Thủ tướng Chính phủ v/v ban hành quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh đang trong quá trình hoàn thiện. 

Theo đó, lãnh đạo BIDV kiến nghị Chính phủ, các Bộ, ban ngành sớm hoàn thiện khung pháp lý, chính sách tổng thể liên quan đến triển khai tài chính bền vững nói chung và tín dụng xanh nói riêng, định hướng phát triển từng ngành hướng đến mục tiêu trung hòa các-bon vào năm 2050. Trước mắt, sớm ban hành Tiêu chí phân loại dự án xanh, hướng dẫn công bố thông tin tài chính khí hậu theo chuẩn quốc tế; đưa ra các quy định, hướng dẫn cụ thể, định hướng NHTM tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho tín dụng xanh.

Cũng theo lãnh đạo ngân hàng, các cơ chế, khuyến khích của Chính phủ, NHNN khi triển khai cấp tín dụng xanh hiện đang dừng ở mức khuyến khích chung, chưa có cơ chế ghi nhận trong quá trình đánh giá, xếp hạng đối với TCTD có thành tích tốt trong hoạt động cấp tín dụng xanh, cũng như chưa có cơ chế hỗ trợ nguồn vốn/ kênh tiếp cận nguồn vốn thực sự hiệu quả để các TCTD đẩy mạnh tín dụng xanh.

“Hiện nay, phần lớn nguồn vốn huy động của các TCTD là vốn ngắn hạn trong khi nguồn vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mang lại lợi ích môi trường, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng tại Việt Nam thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thị trường cao nên rất cần các ưu đãi về thời hạn và chi phí vốn vay”, Giám đốc Ban Tài trợ dự án BIDV nêu ý kiến.

Do đó, lãnh đạo BIDV đề xuất cần có cơ chế khuyến khích áp dụng cho các TCTD khi triển khai cấp tín dụng xanh bao gồm: Nghiên cứu đưa ra cơ chế đánh giá ưu tiên đối với các TCTD có thành tích tốt trong hoạt động tín dụng xanh khi đánh giá, xếp loại TCTD, có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các ngân hàng có tốc độ, quy mô triển khai cấp tín dụng xanh, có đóng góp thiết thực cho việc bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính; Hỗ trợ tái cấp vốn ưu đãi hoặc tạo điều kiện cho các TCTD tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ các định chế quốc tế để các TCTD gia tăng thêm nguồn vốn giá rẻ để tài trợ cho nhu cầu tín dụng xanh;  Giảm hệ số rủi ro tín dụng đối với các khoản vay tài trợ dự án xanh, tương tự như cơ chế áp dụng cho khoản vay mua nhà ở xã hội tại Dự thảo sửa đổi Thông tư 41/2016/TT-NHNN.

Trần Thúy