Hải Phòng: Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quy trình sản xuất, chăn nuôi

​Thành phố Hải Phòng, với vị thế chiến lược là một cực tăng trưởng kinh tế, đang quyết tâm tái cấu trúc ngành nông nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất và chăn nuôi.

Trong bối cảnh thách thức của biến đổi khí hậu, dịch bệnh phức tạp và nhu cầu ngày càng cao về an toàn thực phẩm, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật (KHKT) và công nghệ cao đã được xác định là chiến lược then chốt để tạo ra những bước chuyển mình mạnh mẽ, hướng tới một nền nông nghiệp thông minh, bền vững và có giá trị kinh tế vượt trội. 

Sự chuyển đổi này không chỉ nhằm mục đích tăng năng suất mà còn cải thiện căn bản phương thức sản xuất, nâng cao chất lượng đời sống người dân nông thôn và bảo vệ môi trường sinh thái.

Chuyển đổi chiến lược

​Mặc dù tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chung của Hải Phòng không lớn, nhưng vai trò của nó trong việc đảm bảo an ninh lương thực, cung cấp thực phẩm sạch cho đô thị và phát triển nông thôn mới là vô cùng thiết yếu. 

Các cơ quan chức năng Hải Phòng nhận định, việc áp dụng phương thức sản xuất truyền thống, dựa nhiều vào kinh nghiệm và chịu ảnh hưởng lớn từ thiên nhiên, đã bộc lộ nhiều hạn chế về năng suất, chất lượng và khả năng kiểm soát rủi ro.

Do đó, ​việc tiếp cận KHKT, đặc biệt là công nghệ số (Digital Technology) và công nghệ sinh học (Biotechnology) từng bước mang lại giải pháp đột phá. 

Các nghiên cứu và thí điểm cho thấy, việc áp dụng công nghệ có thể giúp nông dân tăng năng suất từ 15% đến 25% và đồng thời giảm chi phí sản xuất khoảng 10% đến 14% nhờ vào việc tối ưu hóa vật tư đầu vào như giống, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. 

Hơn nữa, KHKT còn là công cụ hữu hiệu để kiểm soát dịch bệnh trong chăn nuôi và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, góp phần xây dựng một nền "nông nghiệp xanh, giảm phát thải" đúng với định hướng phát triển bền vững của thành phố.

img-20251109-091244-1762654813.jpg
Người dân tại xã Nam An Phụ sử dụng máy cắt cỏ cải biên làm máy tưới rau màu di động, giúp giảm sức người, nâng cao năng suất trong canh tác nông nghiệp.

Điển hình như, cuối tháng 10 vừa qua, Trung tâm đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ (Sở Khoa học và Công nghệ Hải Phòng) phối hợp với Học viện Kỹ thuật quân sự giới thiệu hai công nghệ mới gồm: Công nghệ thực tế ảo (VR) trong sản xuất trồng trọt và hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong nuôi trồng thủy sản.

Công nghệ thực tế ảo (VR) được ứng dụng trong lĩnh vực trồng trọt giúp người sản xuất có thể mô phỏng toàn bộ quy trình canh tác, từ khâu chọn giống, chăm sóc đến thu hoạch trong môi trường ảo.

Thông qua kính và thiết bị thực tế ảo, người dùng có thể quan sát sự sinh trưởng của cây trồng dưới các điều kiện khác nhau, nhận biết sớm các yếu tố ảnh hưởng năng suất, qua đó tối ưu hoá kỹ thuật chăm sóc và giảm thiểu rủi ro trong sản xuất. Việc ứng dụng VR không chỉ hỗ trợ đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật mà còn giúp đánh giá hiệu quả các mô hình sản xuất trước khi triển khai thực tế.

Hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong nuôi trồng thủy sản là công nghệ tích hợp dữ liệu không gian và thông tin quản lý, giúp phân tích, giám sát môi trường, tối ưu hóa vùng nuôi và hỗ trợ ra quyết định.

Hệ thống này cho phép thu thập, hiển thị và phân tích nhiều loại dữ liệu như bản đồ địa hình, chất lượng nước, vị trí ao nuôi, sinh vật nuôi, từ đó giúp nhà quản lý đưa ra giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm phát triển bền vững. GIS đóng vai trò quan trọng trong quy hoạch và phát triển ngành thủy sản hiện đại, đặc biệt trong công tác quản lý môi trường và cảnh báo sớm rủi ro dịch bệnh.

Mô hình thí điểm ứng dụng GIS đã được thiết kế và triển khai tại vùng nuôi thủy sản tại một số xã thuộc huyện Tứ Kỳ (cũ), bước đầu mang lại hiệu quả tích cực trong việc số hóa dữ liệu, giám sát môi trường và quản lý hoạt động sản xuất.

img-20251109-091235-1762654815.jpg
Việc áp dụng các nguyên liệu có nguồn gốc hữu cơ vào sản xuất nông nghiệp đang là xu thế của nông dân tại xã Trường Tân.

Đột phá công nghệ trong sản xuất, hướng tới nông nghiệp thông minh 

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế phát triển nông nghiệp thông minh toàn cầu, việc ứng dụng các tiến bộ KHKT và công nghệ cao đã được xác định là chiến lược then chốt, tạo ra những bước chuyển mình mạnh mẽ, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Sự chuyển đổi này không chỉ đơn thuần là việc áp dụng máy móc mà là một cuộc cách mạng về tư duy sản xuất và quản lý rủi ro.

Theo tìm hiểu của PV Tạp chí Doanh nghiệp và Kinh tế xanh, lĩnh vực ​trồng trọt tại Hải Phòng đã chứng kiến sự chuyển mình đáng kể từ canh tác truyền thống sang các mô hình nông nghiệp công nghệ cao (CNC), tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm đặc trưng, có giá trị kinh tế vượt trội.

​Các hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp đã đẩy mạnh đầu tư vào sản xuất trong nhà màng và nhà lưới, tạo môi trường canh tác được kiểm soát hoàn toàn. Các giống cây trồng cao cấp như dưa lưới, dưa hấu, rau ăn lá… theo quy trình VietGAP, thậm chí là Organic, được canh tác trong điều kiện tối ưu. 

img-20251109-091227-1762654815.jpg
Hệ thống nhà màng tại xã Trường Tân được ứng dụng các công nghệ, khoa học hiện đại đang mang lại hiệu quả tích cực cho người dân trong sản xuất nông nghiệp hướng tới nông nghiệp xanh - sạch.

Việc áp dụng hệ thống tưới tiêu thông minh và hệ thống định lượng dinh dưỡng (Fertigation) đã loại bỏ được các phương pháp tưới tiêu thủ công, sử dụng cảm biến để theo dõi độ ẩm, pH đất và nồng độ dinh dưỡng, điều chỉnh chính xác lượng nước và phân bón cần thiết.

​Minh chứng rõ ràng cho hiệu quả đầu tư này là sự thành công của các đơn vị tiên phong. 

Điển hình như, tại hợp tác xã (HTX) Tân Minh Đức tại xã Trường Tân, những năm gần đây đã mở rộng diện tích canh tác dưa lưới, dưa chuột lên đến 50 ha sử dụng công nghệ nhà màng và điều khiển tự động. 

Nhờ quy trình kiểm soát nghiêm ngặt và áp dụng công nghệ cao, sản phẩm của HTX này đạt chất lượng cao, có giá bán ổn định, mang lại giá trị kinh tế ước tính đạt trên 1 tỷ đồng/ha/năm, cao gấp nhiều lần so với trồng lúa.

Tương tự, giai đoạn vừa qua, Trung tâm đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ (Sở Khoa học và Công nghệ Hải Phòng) đã triển khai đề tài “Ứng dụng giải pháp kỹ thuật tổng hợp phòng trừ sâu bệnh hại chính trên cây thanh long” do kỹ sư Vũ Văn Tân làm chủ nhiệm đã thử nghiệm thí điểm 2 mô hình trồng thanh long ruột đỏ tại phường Nguyễn Trãi. 

img-20251109-092822-1762655351.jpg
Mô hình vườn thanh long của 1 hộ dân tại phường Nguyễn Trãi áp dụng giải pháp kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh bước đầu mang lại hiệu quả cao.

Các biện pháp kỹ thuật được áp dụng đồng bộ theo hướng quản lý dịch hại tổng hợp (IPM): Cắt tỉa, vệ sinh vườn, bón phân hữu cơ, xử lý gốc bằng chế phẩm sinh học, sử dụng bẫy pheromon, kết hợp phun thuốc sinh học và hóa học khi cần thiết. 

Nhờ áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật giúp cây thanh long ruột đỏ sinh trưởng tốt, tỷ lệ bệnh đốm nâu giảm 86,36 - 93,75%, bệnh thán thư giảm 85,71 - 92,95% so với vườn đối chứng; mật độ rệp sáp và tỷ lệ hại ruồi đục quả giảm hơn 85%. Năng suất đạt 13,9 - 14,1 tấn/ha, lợi nhuận bình quân 126 triệu đồng/ha/năm. 

​Bên cạnh đó, việc cơ giới hóa đồng bộ và ứng dụng công nghệ số đã thay đổi căn bản quy trình canh tác lúa và rau màu lớn. 

Sự xuất hiện của máy bay không người lái (Drone) để phun thuốc bảo vệ thực vật, gieo sạ, và rải phân đã trở nên phổ biến, đặc biệt trong các mô hình sản xuất của hiệp hội câu lạc bộ đại điền Hải Phòng. 

Các thiết bị này không chỉ rút ngắn thời gian canh tác mà còn tăng độ chính xác trong sử dụng vật tư, giảm thiểu tối đa lượng hóa chất độc hại, hướng tới mục tiêu nông nghiệp sạch và bền vững. Việc ứng dụng công nghệ đã giúp tăng năng suất lúa từ 5-10% và giảm chi phí nhân công từ 15-20% trên mỗi vụ.

img-20251109-091233-1762654814.jpg
Hệ thống phun tưới tự động tại vùng trồng cà rốt xã Tuệ Tĩnh.

Hiện đại hóa trong chăn nuôi

Cũng theo tìm hiểu và ghi nhận của PV, ​lĩnh vực chăn nuôi tại Hải Phòng đang có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ sang mô hình trang trại công nghiệp tập trung, ứng dụng công nghệ hiện đại.

​Điểm nổi bật nhất là việc áp dụng hệ thống tự động hóa (IoT) trong quản lý và vận hành chuồng trại. Các trang trại chăn nuôi lợn và gia cầm quy mô lớn đã lắp đặt hệ thống cho ăn, uống nước tự động, và đặc biệt là hệ thống kiểm soát khí hậu chuồng nuôi (Climate Control). 

Hệ thống này sử dụng cảm biến để theo dõi nhiệt độ, độ ẩm, và nồng độ khí độc (NH3), từ đó tự động điều chỉnh quạt thông gió, làm mát và sưởi ấm. Sự ổn định môi trường giúp vật nuôi giảm stress, tăng sức đề kháng và cải thiện hệ số chuyển hóa thức ăn. 

Mô hình chăn nuôi gà sinh sản theo công nghệ Israel tại Tiên Lãng là minh chứng cụ thể cho hiệu quả của tự động hóa trong việc nâng cao chất lượng con giống và giảm thiểu rủi ro dịch bệnh.

img-20251109-091228-1762654815.jpg
Người dân áp dụng dụng hệ thống tự động hóa (IoT) trong quản lý và vận hành chuồng trại.

​Cùng với tự động hóa, công nghệ sinh học được ứng dụng rộng rãi để đảm bảo an toàn sinh học (Biosafety) và xử lý môi trường. Việc sử dụng chế phẩm sinh học và đệm lót sinh học trong chăn nuôi giúp kiểm soát mùi hôi và mầm bệnh, cải thiện đáng kể điều kiện vệ sinh. 

Đặc biệt, việc phát triển công trình khí sinh học (Biogas) để xử lý chất thải chăn nuôi đang được khuyến khích mạnh mẽ. Công nghệ Biogas không chỉ giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường mà còn tạo ra nguồn năng lượng tái tạo (điện, nhiệt) phục vụ sản xuất và sinh hoạt, biến chất thải thành tài nguyên, hoàn thiện mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi.

Theo thông tin từ Hội nông dân TP Hải Phòng, thành phố đang tích cực triển khai chuyển đổi số theo Nghị quyết 45/NQ-HĐND. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu số về đàn vật nuôi (Lợn, gia cầm) và ứng dụng phần mềm trong truy xuất nguồn gốc giúp các cơ quan chuyên môn theo dõi, quản lý dịch bệnh theo thời gian thực (real-time monitoring), nâng cao khả năng phản ứng nhanh và đảm bảo chất lượng, uy tín sản phẩm trên thị trường.

​Xây dựng thương hiệu nông nghiệp 

Từ những kết quả bước đầu cho thấy, ​hiệu quả của việc ứng dụng KHKT tại Hải Phòng không chỉ nằm ở số liệu năng suất mà còn ở sự thay đổi mang tính hệ thống. Giá trị kinh tế của sản phẩm tăng lên nhờ vào chất lượng đồng đều, đạt chuẩn an toàn (VietGAP, OCOP). 

Sự gia tăng về chất lượng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng chuỗi liên kết giá trị bền vững từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, giúp sản phẩm nông nghiệp Hải Phòng định vị và mở rộng thị trường, đặc biệt là các kênh siêu thị và xuất khẩu.

​Để thúc đẩy quá trình này, Hải Phòng đã ban hành các cơ chế hỗ trợ tài chính và đất đai. Cụ thể, cam kết dành nguồn vốn đáng kể, ước tính khoảng 375 tỷ đồng mỗi năm trong giai đoạn 2026 – 2030, để hỗ trợ cho các dự án nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn và ứng dụng công nghệ số. Nguồn vốn này được sử dụng để hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật, mua sắm máy móc thiết bị hiện đại và chuyển giao công nghệ.

img-20251109-091231-1762654815.jpg
Người dân tại xã Tân An sử dụng phế phẩm sinh học tự sản xuất để nuôi trồng thủy sản nhằm tăng đề kháng cho cá, đạt năng suất cao.

​Quan trọng hơn cả, việc ứng dụng KHKT đã giúp thay đổi căn bản tư duy sản xuất của người nông dân và doanh nghiệp. Họ chuyển từ việc phụ thuộc vào kinh nghiệm truyền thống sang quản lý dựa trên dữ liệu và công nghệ, chủ động tiếp cận thông tin thị trường và kỹ thuật mới để tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh, sẵn sàng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tuy nhiên, theo nhận định của giới chuyên môn, để duy trì và phát huy những thành quả đã đạt được, Hải Phòng cần tập trung vào các giải pháp mang tính chiến lược trong thời gian tới:

​Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và chính sách hỗ trợ cần được ưu tiên hàng đầu, đặc biệt là các cơ chế ưu đãi về vốn, đất đai, và chính sách thuế để thu hút các doanh nghiệp lớn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, tạo ra các khu sản xuất tập trung.

​Thứ hai, Hải Phòng cần tổ chức các chương trình tập huấn chuyên sâu về vận hành hệ thống tự động, phân tích dữ liệu nông nghiệp, và quản lý trang trại thông minh. Đồng thời, cần có chính sách thu hút và trọng dụng đội ngũ kỹ sư, chuyên gia công nghệ làm việc trong ngành nông nghiệp.

​Thứ ba, cần đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện bằng cách xây dựng và hoàn thiện nền tảng dữ liệu lớn (Big Data) trong nông nghiệp, tích hợp thông tin về thổ nhưỡng, khí hậu, dịch bệnh và thị trường. Nền tảng này sẽ là cơ sở cho việc áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và máy học (Machine Learning) vào dự báo và ra quyết định sản xuất.

​Cuối cùng, việc tham gia vào các cơ chế tài chính bền vững như tín chỉ carbon phải được chuẩn bị kỹ lưỡng. Nông nghiệp xanh, giảm phát thải sẽ tạo ra một nguồn thu nhập mới thông qua việc bán tín chỉ carbon, thúc đẩy hơn nữa việc áp dụng công nghệ sinh học và kinh tế tuần hoàn.

Áp dụng các tiến bộ KHKT là con đường duy nhất để nông nghiệp Hải Phòng thoát khỏi mô hình sản xuất truyền thống, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng vượt trội và phát triển theo hướng hiện đại, thông minh, và bền vững. Với sự cam kết mạnh mẽ từ chính quyền, nguồn vốn đầu tư dồi dào và sự chủ động của người dân, ngành nông nghiệp Hải Phòng đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành một hình mẫu về ứng dụng công nghệ trong sản xuất, đóng góp vào mục tiêu phát triển chung của thành phố.

Đăng ký đặt báo