Gạo Việt Nam và những thách thức khi xuất khẩu vào thị trường Asean

Những năm qua, gạo là mặt hàng nông sản chính của Việt Nam xuất khẩu sang Asean. Tuy nhiên, doanh nghiệp xuất khẩu cần có chiến lược thâm nhập bài bản, linh hoạt với từng thị trường, xây dựng thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh cho gạo Việt Nam...

Thị trường tiềm năng

Theo Bộ Công thương, những năm qua, gạo là mặt hàng nông sản chính của Việt Nam xuất khẩu sang ASEAN. Đây là thị trường lớn với dân số gần 700 triệu dân. Người dân ASEAN có nhiều nét tương đồng về lối sống, văn hóa và sinh hoạt, ưu thế về khoảng cách địa lý gần với Việt Nam. Do đó, dư địa để tăng trưởng xuất khẩu của gạo Việt Nam sang khu vực ASEAN còn rất lớn.

Trong số các nước ASEAN, lúa gạo của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu sang Philippines. Năm 2021, Philippines là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với lượng xuất khẩu đạt 2,45 triệu tấn, với kim ngạch trên 1,25 tỷ USD, giá trung bình 509,7 USD/tấn, tăng 10,7% về lượng, tăng 18,5% về kim ngạch và tăng 7,1% về giá so với năm 2020, chiếm 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.

Quý I/2022, Philippines tiếp tục đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 44,7% trong tổng lượng và chiếm 42,6% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt 672.136 tấn, tương đương 311,08 triệu USD, giá trung bình 462,8 USD/tấn, tăng mạnh 63,3% về lượng, tăng 41,4% về kim ngạch. Ngoài Philippines, gạo Việt Nam còn được xuất khẩu sang các thị trường quan trọng khác trong ASEAN như Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei.

Đáng chú ý, xuất khẩu gạo sang thị trường Malaysia trong tháng 1/2022 tăng mạnh cả về lượng và kim ngạch so với tháng 12/2021, với mức tăng tương ứng 163,4% và 156%. So với tháng 1/2021 cũng tăng mạnh 104% về khối lượng và tăng 67,5% về kim ngạch, đạt 34.925 tấn, tương đương 16,07 triệu USD.

Gạo xuất khẩu sang Philippines và Indonesia chủ yếu là gạo trắng phẩm cấp thường, độ tấm từ 20-25%, cạnh tranh chủ yếu bằng giá. Về mặt chiến lược, ngành lúa gạo của Việt Nam sẽ giảm dần xuất khẩu các loại gạo trắng thường vì không thể cạnh tranh về giá với các nước chuyên sản xuất gạo giá rẻ như Myanmar, Pakistan và Ấn Độ, để tăng cường sản xuất loại gạo chất lượng cao.

Những năm về trước, lúa chất lượng cao chỉ chiếm từ 35 đến 40% trong cơ cấu sản xuất lúa gạo thì đến năm 2020 con số này đã đạt từ 75 đến 80%. Việc này đã đưa giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng lên rất nhanh trong vài năm gần đây, nhất là từ năm 2020.

Cơ cấu gạo xuất khẩu của Việt Nam đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng gia tăng các loại gạo thơm, gạo đặc sản, gạo japonica, gạo trắng phẩm cấp cao với giá bán và giá trị gia tăng cao hơn. Mục tiêu xuất khẩu gạo của cả nước cũng đã được điều chỉnh, đến năm 2030, dự kiến chỉ còn khoảng 4 triệu tấn. Do đó, để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo sang ASEAN, ngành gạo cần rà soát lại nhu cầu nhập khẩu của từng thị trường trong ASEAN, xác định những thị trường tiêu thụ gạo phẩm cấp thường với giá rẻ, thị trường tiêu thụ gạo cao cấp, gạo thơm…

hinh-2-1503374216-d9c6a-1652838167.jpg
Gạo chất lượng cao của Việt Nam đang bán được giá cao ở ASEAN (Ảnh minh họa - Ảnh Bộ Công thương).

Những thách thức....

Dù là các thị trường tiềm năng, doanh nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế xuất khẩu gạo sang các nước ASEAN, nhưng trước mắt vẫn có những thách thức không nhỏ để giữ vững và mở rộng thị phần.

Đối với thị trường Indonesia, ông Phạm Thế Cường, Tham tán thương mại Việt Nam tại Indonesia, cho biết nước này bảo hộ nền sản xuất lúa gạo trong nước nên có chính sách quản lý nhập khẩu gạo khá chặt chẽ, theo cơ chế cấp phép và giới hạn chủng loại gạo được phép nhập khẩu.

Các loại gạo nhập khẩu vào nước này là những loại trong nước chưa thể sản xuất hoặc không đáp ứng được như gạo chất lượng cao từ 0-5% tấm, gạo dành cho những người tiểu đường và gạo 100% tấm phục vụ nhu cầu sản xuất công nghiệp.

Bên cạnh đó, gạo xuất sang Indonesia phải đáp ứng quy chuẩn, tiêu chuẩn của nước này như quy định về hàm lượng kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật; đáp ứng quy định về hàm lượng tối đa các độc tố vi nấm… Đặc biệt, phải được kiểm nghiệm bởi 1 trong 10 phòng kiểm nghiệm Việt Nam đã được Indonesia phê duyệt.

Mặc dù gạo xuất khẩu của Việt Nam đã có chỗ đứng nhất định tại thị trường Indonesia (top 3 trong những nước cung cấp gạo cho Indonesia), song theo đánh giá của Thương vụ Việt Nam tại Indonesia, gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong thời gian tới. Đó là chủ trương tự đảm bảo an ninh lương thực từ nguồn lúa gạo trong nước khiến nhu cầu nhập khẩu gạo có xu hướng sụt giảm.

Hơn nữa, Chính phủ Indonesia ngày càng thúc đẩy trồng lúa gạo thông qua việc xây dựng các vùng lúa chuyên canh, tập trung, phát triển và mở rộng hệ thống thủy lợi, xây dựng thêm nhiều hồ chứa nước phục vụ tưới tiêu, đưa ra các chính sách khuyến khích nông dân trồng lúa như trợ cấp phân bón, phát triển nhiều giống lúa, đảm bảo đầu ra cho nông dân, hỗ trợ và khuyến khích nông dân mua bảo hiểm nông nghiệp…

Mặt khác, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa gạo Thái Lan và Việt Nam ở phân khúc gạo chất lượng cao trong bối cảnh nhập khẩu gạo của Indonesia sụt giảm. Trong khi  việc nhận diện thương hiệu gạo của Việt Nam tại thị trường Indonesia chưa thực sự mạnh. Tại nhiều siêu thị của Indonesia, gạo Thái Lan đã có nhiều dấu hiệu nhận biết với người tiêu dùng nước này.

"Ở khía cạnh khác, tầng lớp trung lưu của Indonesia đông đảo với gần 60 triệu người, tương đương Hàn Quốc, Tây Ban Nha… nên nhu cầu sử dụng gạo chất lượng cao cũng ngày càng gia tăng trong bối cảnh khả năng cung ứng gạo chất lượng cao trong nước còn nhiều hạn chế. Các loại gạo thơm hay đặc sản của Việt Nam như ST24, ST25 hoàn toàn có khả năng gia tăng thị phần tại thị trường này.

Tuy nhiên, nhiều doanh nhân nhập khẩu gạo lớn chưa biết đến gạo chất lượng cao của Việt Nam như ST24, ST25. Do đó, trước sức ép cạnh tranh này, công tác quảng bá gạo Việt Nam cần được đẩy mạnh hơn nhiều”, ông Cường đề xuất.

Anh Vân (t/h)