Quảng cáo #128

Đạo đức công vụ - Yêu cầu cấp thiết đối với cán bộ, công chức thời kỳ mới (Phần I)

Đối với mỗi người cán bộ, công chức, đạo đức là gốc, là nền tảng để quyết định mọi vấn đề có liên quan đến chất lượng thực thi công vụ. Vì thế, xây dựng và thực thi các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp là yêu cầu cấp thiết trong tất cả các thời kỳ, đặc biệt là trong giai đoạn xã hội có nhiều biến đổi nhanh, mạnh mẽ như hiện nay...
plo-thanh-uy-tp-khao-sat-phuong-dong-dan-2-2323-1662168278.jpg
Minh họa

Bản chất và nội hàm của đạo đức công vụ

Đạo đức học là một phạm trù triết học nhân sinh được đặt ra rất sớm từ thời A-ri-xtốt (Aristode, 384 - 322 trước Công nguyên). Những nhà triết học lớn trong lịch sử như Sô-cơ-rát (Socrat), Pla-tông (Planton), A-ri-xtốt, Can (Kant), Hê-ghen (Heghen), Khổng Tử... đã đóng góp to lớn cho quá trình phát triển tư tưởng đạo đức học.

Tuy nhiên, do các hạn chế của điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại, các nhà tư tưởng đều có những hạn chế nhất định, đến Các Mác, Ph.  Ăng-ghen và V.I. Lê-nin khi nghiên cứu sâu vào nguồn gốc và bản chất đạo đức mới khắc phục và bổ khuyết những hiểu biết mới so với tư tưởng đạo đức học trước đây. Các ông đã đưa ra nhận thức mới dựa trên phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nhận thức các hiện tượng đạo đức phù hợp với lịch sử của thời đại.

 Theo đó, đạo đức là một hiện tượng xã hội, một phương diện của đời sống xã hội, hiện diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo và cụ thể trong hành vi của con người, trong mối quan hệ của con người với con người, con người với tự nhiên và xã hội...), với tư cách là hình thái ý thức xã hội, biểu hiện dưới dạng các nguyên tắc, quy tắc, các chuẩn mực, các giá trị điều chỉnh hành vi của con người và hoạt động xã hội trong sản xuất ra của cải vật chất, giá trị tinh thần.

Các công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ đã xác lập mối tương quan giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác, tập trung vào 3 mối quan hệ cơ bản: 1- Đạo đức và chính trị; 2- Đạo đức và pháp luật - công cụ khẳng định các chuẩn mực, các thói quen, các giá trị được xã hội thừa nhận, tuân theo; 3- Đạo đức và tôn giáo - trong đời sống, tôn giáo có vai trò hướng dẫn và đóng vai trò đạo đức, hình thành các giá trị và ý nghĩa của cuộc sống, có giá trị thiêng liêng, góp phần điều chỉnh hành vi của con người.

Trong xã hội hiện đại của Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức “Cần - Kiệm  - Liêm - Chính” là những giá trị nền tảng cho đạo đức công chức, đạo đức công vụ. Bác Hồ là hiện thân của giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác - Lê-nin hình thành đạo đức cách mạng. Chính đạo đức cách mạng của những người cách mạng, của các thế hệ người Việt Nam thể hiện đỉnh cao trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ở sự xả thân, dám hy sinh tất cả vì lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” tạo nên sức mạnh dân tộc, giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, làm nên giá trị Việt Nam, đạo đức Việt Nam.

Trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, đạo đức nghề nghiệp được đặt ra và thể hiện ở hai phẩm chất đức - tài của người lãnh đạo, quản lý, của người cán bộ, công chức nói chung. Khi công chức thực thi công vụ được xác định là một nghề đặc biệt, lại càng cần một phẩm chất đặc biệt của người “công bộc” của dân. Thách thức chuyển từ vai trò người quản lý, từ cơ chế “xin - cho” sang người phục vụ nhân dân, người phục vụ phát triển là việc hình thành giá trị mới của người cán bộ, công chức - đây là vấn đề có ý nghĩa cách mạng.

Ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX, Bác Hồ đã ký Sắc lệnh số 76/SL, ngày 20-5-1950, về việc ban hành quy chế công chức do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành, đưa ra bốn tiêu chí trong câu nói ngắn gọn: “Công chức là đầy tớ, công bộc của dân”, có 4 phẩm chất “Cần - Kiệm - Liêm - Chính”. Đó cũng chính là những giá trị đạo đức cần được hình thành trong đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay của Việt Nam.

Về đạo đức nghề nghiệp, xã hội có bao nhiêu nghề thì tất yếu có bấy nhiêu quy định về đạo đức nghề nghiệp, đây là đạo đức xã hội đặc thù thể hiện trong các hoạt động nghề nghiệp. Với tính cách là loại hình đạo đức xã hội có quan hệ chặt chẽ với đạo đức cá nhân và được cá nhân thể hiện, nên đạo đức nghề nghiệp có liên quan trực tiếp tới hoạt động nghề nghiệp - được hình thành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

 Một đặc trưng quan trọng của đạo đức nghề nghiệp từ các nghiên cứu tập trung vào yếu tố “lương tâm nghề nghiệp” - không chỉ chứa đựng trạng thái tình cảm, tâm lý mà còn là một động lực bên trong tạo ra thái độ ứng xử, thái độ trách nhiệm với nghề, với sản phẩm mình làm ra, nhiệm vụ mình thực hiện. Đây là mối quan hệ tương tác quan trọng hình thành nhân cách, đạo đức, giá trị của người cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, cùng với nó hình thành nghĩa vụ với nghề nghiệp, thành “nghiệp” của mỗi người.

Về công vụ và thực thi công vụ, trong các văn bản pháp lý, công vụ được hiểu theo nghĩa rộng là công việc của nhà nước, và việc nhà nước do công chức đảm nhiệm, thực hiện là theo nghĩa hẹp. Do vậy, công vụ là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước - quyền lực công. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đề cao tính tối thượng của pháp luật, khi xác định công chức là một nghề đặc biệt, nghĩa là đòi hỏi người công chức có một phẩm chất đặc biệt, đó là đạo đức công vụ.

Công việc nhà nước do công chức đảm nhiệm hướng tới hai giá trị: Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả - quản trị tốt; và cung cấp dịch vụ công tốt nhất cho xã hội, cho nhân dân.

Về thực chất, quyền lực nhà nước thể hiện ý chí của nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho bộ máy nhà nước, mà đội ngũ cán bộ, công chức có trách nhiệm thực thi cần có những quy định rõ ràng thẩm quyền, trách nhiệm của người cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Đây là một sự ủy quyền gián tiếp, đòi hỏi người cán bộ, công chức phải ý thức được rõ ràng trách nhiệm của mình, cần có những chuẩn mực giá trị đạo đức, hành vi ứng xử rõ ràng, đó là gần dân, nghe dân, hiểu dân và làm cho dân hài lòng - thực sự phục vụ nhân dân, là “công bộc” của nhân dân.

Những đòi hỏi trên đây tạo ra mối quan hệ tốt giữa Nhà nước với nhân dân, hình thành những giá trị đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. (còn nữa)

Lê Hà