Đa dạng tài nguyên di truyền thực vật lương nông ở Việt Nam (Phần II)

Đông Nam Á là một trong ba khu vực phong phú nhất thế giới về tài nguyên di truyền thực vật. Ngoài những nét chung của khu vực, do đặc điểm về các điều kiện tự nhiên, lịch sử và văn hoá, tài nguyên di truyền thực vật của Việt Nam có sự phong phú riêng so với các nước Đông Nam Á khác là ngoài các loài cây nhiệt đới còn bao gồm nhiều loài cây cận nhiệt đới và ôn đới.
tea-750x445-1657191016.png
Chè Shan tuyết một trong những loài trà quý hiếm cần bảo tồn

Diện tích lãnh thổ không lớn nhưng Việt Nam là một trong 15 quốc gia đa dạng và giàu có nhất thế giới về tài nguyên di truyền thực vật, với dự tính có thể có 20.000-30.000 loài thực vật chiếm 6,5% số loài có trên thế giới. Nhóm sinh vật vi tảo ở vùng nước ngọt được xác định là 1.438 loài, chiếm 9,6% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 15.000), các loài thực vật bậc cao có 11.373 loài chiếm 5% số loài của thế giới (số loài trên thế giới 220.000 loài) và 826 loài nấm (Đánh giá thực hiện Công ước đa dạng sinh học ở Việt Nam giai đoạn 1995-2005).

Theo số liệu hiện nay, hệ thực vật Việt Nam có trên 14.000 loài thực vật bậc cao. Nếu so sánh với Bắc Mỹ bao gồm Hoa Kỳ và Canada diện tích gần 20 triệu km2, cả châu Úc diện tích 7 triệu km2 cũng chỉ có tương ứng là 12.000 và 8.000 loài. Điều quan trọng khác là tỷ lệ các loài cây bản địa của Việt Nam cao, đến 40%, là tỷ lệ mà ít nước có.

Như đối với cây lúa, cây trồng truyền thống của Việt Nam, Nguyễn Hữu Nghĩa và Lê Vinh Thảo (2007) đã mô tả các loại hình phong phú và chất lượng thơm ngon đặc biệt cũng như có chứa nhiều chất khoáng quan trọng đối với cơ thể con người và đã dẫn các số liệu cho thấy trong tổng số 464 giống lúa đại diện ở miền Bắc Việt Nam đưa vào phân loại dựa trên mẫu Isozyme có 147 giống đặc sản chiếm 36,68%.

Nhiều nguồn gen thực vật quý của Việt Nam đã góp phần tạo nên thắng lợi của Cách mạng xanh và sẽ đóng góp lớn cho thành tựu nông nghiệp của cả nhân loại trong tương lai. Nguồn gen kháng bệnh Đạo ôn lúa của nhóm giống lúa chiêm Tẻ tép là một trong những nguồn gen kháng Đạo ôn chủ lực trên thế giới, có mặt trong các giống lúa kháng sâu bệnh tổng hợp nổi tiếng như IR36, IR64...

Nguồn gen của loài lúa hoang dại Oryza rufupogon thu thập tại Điện Biên Phủ và Đồng Tháp Mười được Viện Nghiên cứu lúa quốc tế đánh giá là kháng bệnh Vàng lụi và chịu chua phèn nhất thế giới. Cả hành tinh có ba nhóm giống lúa thơm là Basmati ở Ấn Độ, Pakistan; Khaodak Mali ở vùng trung và hạ lưu sông Cửu Long và Tám thơm ở đồng bằng sông Hồng, tức là Việt Nam có hai nhóm lúa thơm. Đáng chú ý lúa Tám thơm là lúa Japonica.

Đây là vấn đề có ý nghĩa khoa học lớn, mở ra hướng lai tạo các giống lúa thơm ở vùng ôn đới là nơi chỉ có lúa Japonica nhưng lại không có nguồn gen lúa thơm. Nhiều giống của nhiều loài cây thức ăn gia súc trước đây là cây hoang dại được người Pháp di thực từ Việt Nam sang các nước thuộc địa khác, sau đó được các cơ quan nghiên cứu hải ngoại của Pháp và một số cơ quan nghiên cứu nông nghiệp quốc tế phục tráng thành những giống cây thức ăn gia súc quan trọng đang phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.

Nguồn gen dưa chuột của Việt Nam tham gia vào việc tạo ra các giống dưa chuột chống chịu với điều kiện bất thuận ở Liên Xô cũ, góp phần đáng kể vào việc mở rộng diện tích trồng dưa chuột ở Liên Xô trước đây và các nước SNG ngày nay. Số liệu điều tra ban đầu đã cho thấy Việt Nam có sự phong phú và đa dạng cao về tài nguyên di truyền thực vật lương nông, phân bố ở các hệ sinh thái, nhất là tại các vùng rừng núi trên khắp đất nước. Việt Nam được biết đến như là một trung tâm phát sinh nhiều loài cây trồng như lúa gạo, khoai môn sọ, chuối, mít, xoài, dừa, chè, hành ta và các giống cây ăn quả có múi. Con số đáng kể các loài mới được phát hiện gần đây đã một lần nữa khẳng định sự phong phú và đa dạng nguồn tài nguyên di truyền thực vật của đất nước.

Theo số liệu điều tra ban đầu, nguồn gen giống cây trồng hiện đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp từ 16 nhóm các loại cây trồng khác nhau: cây lương thực chính, cây lương thực bổ sung, cây ăn quả, cây rau, cây gia vị, cây lấy sợi, cây làm nước uống, cây thức ăn gia súc, cây bóng mát, cây lấy gỗ với tổng số trên 800 loài cây trồng với hàng ngàn giống khác nhau phổ biến tại các hệ sinh thái nông nghiệp khác nhau trên cả nước.

Trong đó phổ biến nhất bao gồm 41 loài cây tinh bột làm lương thực, 95 loài cây thực phẩm không tinh bột, 105 loài cây ăn quả, 55 loài rau, 44 loài cây lấy dầu, 16 loài lấy sợi, 12 loài làm đồ uống, 181 loài làm thuốc, 39 loài làm gia vị, 29 loài làm cây che phủ chống xói mòn, 50 loài cây cảnh, 49 loài cây lấy gỗ, và 5 loài cây bóng mát.

Số lượng các loài thực vật có quan hệ họ hàng với cây trồng là khoảng trên 1.300 loài, trong đó có nhiều loài đã và đang bị lãng quên. Ngoài ra còn rất nhiều loài thực vật có giá trị nông nghiệp chưa được khai thác sử dụng nhiều. Kết quả điều tra cũng cho thấy số loài cây bị đe doạ rất nhiều và ngày càng xuất hiện nhiều trong Sách đỏ Việt Nam (IUCN, 2006). Hiện nay tại Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn hơn 12.300 giống của 115 loài cây trồng. Đó là tài sản quí, phần lớn không còn trong sản xuất và trong tự nhiên nữa. Một bộ phận quan trọng của số giống này là nguồn gen bản địa với nhiều đặc tính quí mà duy nhất chỉ có ở Việt Nam.

Sự xói mòn tài nguyên di truyền thực vật lương nông ở Việt Nam Do ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai như lũ lụt, hạn hán và do khai thác bừa bãi và một phần bị lạm dụng bởi các tổ chức và cá nhân nước ngoài, hàng năm có khoảng 300-400 giống tại các địa phương có nguy cơ cao bị xói mòn nguồn gen, trong đó có nhiều giống địa phương quí hiếm (ví dụ: Năm 1996 số loài bị đe doạ mất là 356, năm 2003 đã là 450).

Nhiều giống lúa quí của Việt Nam có giá trị rất cao trong việc lai tạo giống lúa thơm thương mại hiện nay không thể tìm thấy tại Việt Nam mà chúng đã thuộc quyền sở hữu của một số quốc gia khác. Một ví dụ về sự mất mát nguồn gen theo Averyanov et al. về khai thác kiệt loài lan quí Paphiopedilum hangianum thuộc chi lan hài, đến năm 2001, sau 2 năm thu mua bùng nổ tất cả các quần thể được biết hầu như bị tuyệt diệt ngoài thiên nhiên. Từ những thông tin phân tích cho thấy tài nguyên di truyền thực vật lương nông ở Việt Nam đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của các yếu tố kinh tế, yếu tố văn hoá, xã hội và yếu tố sinh học. Các yếu tố chính bao gồm:

- Áp lực tăng dân số, và nghèo đói,

- Tàn phá hệ sinh thái bao gồm nạn phá rừng và khai thác rừng không hợp lý dẫn đến thoái hoá đất, mất hệ thống canh tác truyền thống dẫn đến mất dần cây trồng bản địa.

- Sử dụng giống mới năng suất cao làm thay đổi cơ cấu giống cây trồng, Du nhập các loài ngoại lai.

- Thiên tai, sâu bệnh và các điều kiện ngoại cảnh bất lợi;

- Môi trường thay đổi dưới áp lực của công nghiệp hoá, đô thị hoá, tăng mạnh sử dụng phân hoá học và thuốc trừ sâu.

- Kinh tế thị trường

- Nhận thức về bảo tồn của các bên liên quan yếu; Quản lý lỏng lẻo, không chặt chẽ... Tất cả những vấn đề nêu trên cho thấy biện pháp tổ chức và quản lý hợp lý nhiệm vụ bảo tồn để phục vụ cho khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên cây nông nghiệp là nhiệm vụ khoa học cấp bách của nước ta hiện nay./.

Nguyễn Văn Đĩnh