Bà Thái Thị Liên sinh năm 1918 ở Sài Gòn trong một gia đình trí thức thượng lưu quốc tịch Pháp nổi tiếng ở Nam Bộ. Cha bà là một trong những kỹ sư Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp ở Pháp, một người chịu ảnh hưởng nhiều văn hóa Châu Âu. Chị bà là một trong những nghệ sỹ piano, nhà soạn nhạc đầu tiên ở Sài Gòn và trên toàn đất nước Việt Nam. Cả 7 anh chị em bà đều được gia đình cho học nhạc từ khi còn rất nhỏ. Bản thân bà được học piano với các bà soeur từ năm 4 tuổi. Từ năm 11 tuổi, đồng thời với việc học ở Trường Trung học Marie Curie, bà đã học thêm piano chuyên nghiệp với bà Armande Caron. Và năm 16 tuổi, bà đã lần đầu tiên biểu diễn ra mắt công chúng tại tòa thị chính Sài Gòn.
Vào những năm 1944-1945, nhà bà ở số 1 Phan Kế Bính Sài Gòn đã từng là nơi tụ họp của giới thanh niên trí thức Nam Bộ, những người không thân và không làm việc cho Pháp. Trong số này, có các ông Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Thủ, Kha Vạn Cân, Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Ngô Tấn Nhơn, Trần Công Tường, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ… và nhiều người khác. Tất cả đều là bạn bè và đồng chí của người anh kế trên bà, luật sư Thái Văn Lung một cựu trung úy quân đội Pháp tham gia Thế chiến Thứ hai trong hàng ngũ quân đội Pháp. Một trong những thủ lĩnh Thanh niên Tiền Phong Nam Bộ lúc đó.
Tổ chức Thanh niên Tiền Phong là một tổ chức xã hội, hoạt động kiểu Hướng Đạo Sinh do người Nhật đề nghị bác sỹ Phạm Ngọc Thạch, một nhân sỹ Sài Gòn nổi tiếng có vợ người Pháp đứng ra thành lập. Được sự gợi ý của ông Trần Văn Giàu Bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ, ông Phạm Ngọc Thạch (một đảng viên cộng sản bí mật) đã nhận lời và nhanh chóng xây dựng Thanh niên Tiền Phong thành một tổ chức quần chúng rộng rãi ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ (cho đến cuối tháng 08.1945, riêng ở Sài Gòn đã có hơn 200.000 Thanh niên Tiền Phong). Luật sư Thái Văn Lung chính là người phụ trách tổ chức huấn luyện quân sự cho Thanh niên Tiền Phong.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp 03.1945, trong khi nhân vật chính của tôi theo gia đình sang Pháp và vào học ở Conservatoire Paris, ở Việt Nam xảy ra những biến cố “long trời lở đất”. Cuối tháng 08.1945, dưới sự lãnh đạo ông Trần Văn Giàu Bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ và các đồng chí của ông, Việt Minh mà nòng cốt là lực lượng Thanh niên Tiền Phong đã giành được chính quyền Sài Gòn về tay mình một cách nhanh chóng thuận lợi
Ngày 23.09.1945, người Pháp dưới sự yểm trợ của quân đội Anh đã gây hấn với chính quyền Việt Minh non trẻ, để quay lại tái chiếm Sài Gòn. Ủy Ban Kháng Chiến Nam Bộ dưới lãnh đạo của ông Trần Văn Giàu đã tổ chức nhân dân Nam Bộ chống trả quyết liệt. Hàng loạt tổ chức quân sự địa phương ra đời, mà thành phần chủ yếu là Thanh niên Tiền Phong. Tháng 07.1946, ông Thái Văn Lung đại biểu Quốc Hội Việt Nam khóa 1, lúc đó là Chủ tịch Huyện Thủ Đức, Chỉ huy trưởng Bộ đội Thủ Đức đã bị thương, bị bắt trong một cuộc phục kích của quân đội Pháp. Sau đó, ông đã bị người Pháp tra tấn dã man đến chết vì không chịu khai báo và vì “phản bội” nước Pháp.
Cũng trong thời gian đó tại Paris, số phận đã đưa đẩy bà Thái Thi Liên gặp và kết hôn với ông Trần Ngọc Danh, trưởng Phái đoàn Đại diện của Chính phủ VNDCCH tại Paris lúc đó. Ông Trần Ngọc Danh là đại biểu Quốc Hội Việt Nam khóa 1, từng tốt nghiệp Đại học Phương Đông Moskva, một nhà cách mạng chuyên nghiệp đã ngồi tù Côn Đảo đến tận 1945. Sau này khi tôi hỏi bà tại sao một tiểu thư khuê các như bà lại “đổ” vì ông Trần Ngọc Danh, bà hồn nhiên cho biết “làm sao mà không đổ hả cháu, ông ấy nói rất hay, rất thuyết phục, ông có khí chất đặc biệt của một người làm cách mạng”. Từ đó bà đã tạm gác việc học piano, mà toàn tâm toàn ý giúp đỡ Đoàn đại diện của Chính phủ VNDCCH ở Paris. Bà vừa làm thư ký, làm phiên dịch trong những cuộc họp quan trọng và làm cả lái xe riêng cho Phái đoàn.
Năm 1948, chiến tranh Việt - Pháp ngày càng leo thang, thái độ của chính quyền Pháp và các thành phần dân tộc chủ nghĩa Pháp đối với người Việt ở Pháp ngày càng cực đoan, bà đã theo ông Trần Ngọc Danh chuyển sang sống và làm việc ở Praha Tiệp Khắc. Tại đây, con gái của hai ông bà, NSNG Trần Thu Hà, Giám đốc Nhạc viện Quốc gia Hà Nội tương lai đã ra đời. Đồng thời, bà tiếp tục học piano. Năm 1951, bà đã tốt nghiệp loại ưu Nhạc viện Praha, trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp đại học âm nhạc.
Sau đó cuối năm 1951, bà đã lên đường về chiến khu Việt Bắc để đoàn tụ với ông Trần Ngọc Danh. Đúng vào thời kỳ cuộc chiến tranh Việt - Pháp bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Sau khi bay từ Praha về Bắc Kinh và đi xe lửa xuống phía Nam Trung Quốc, bà đã phải địu con gái 2 tuổi đi bộ hơn 100 cây số xuyên rừng về ATK Việt Bắc. Bà về đúng vào lúc ông Danh đang ốm nặng về thể chất và rất căng thẳng về tinh thần. Bà đã phải vừa chăm con nhỏ, vừa làm vườn, nuôi gà lợn và cả nuôi dê lấy sữa bồi dưỡng cho ông. Nhờ sự chăm sóc kịp thời của bà ông Danh đã khỏe lên hơn nhiều. Khi đó bà cũng đã mang thai người con thứ hai.
Nhưng rồi tai họa vẫn ập đến. Do hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến khu, do thuốc men cực kỳ thiếu thốn và sức khỏe lại đã bị hao mòn từ những năm ở tù Côn Đảo, ông Danh đã không qua khỏi được khi bệnh tái phát. Ông đã ra đi trước khi người con trai, Viện Trưởng Viện Nghiên cứu thiết kế các trường đại học Bộ Đại học tương lai ra đời ít lâu. Đến nay, mỗi khi nói chuyện với bà một người phụ nữ nhỏ nhắn thanh tú, tôi vẫn khó hiểu tại sao một người phụ nữ suốt đời chăn ấm nệm êm như bà có thể đứng dậy được sau khi chồng mất, một mình với hai con nhỏ ở Việt Bắc gian khó. Bà cho biết là ngoài bản năng mẫu tử, tình đồng chí kháng chiến và lòng tin mãnh liệt vào chiến thắng, thì trên hết là tình yêu âm nhạc đã giúp bà vượt qua tất cả.
Trong những năm học đại học ở Nga, các thầy cô thường kể cho chúng tôi những câu chuyện bi tráng về những người Nga vĩ đại. Ấn tượng nhất với họ và đọng lại lâu nhất trong ký ức của tôi là câu chuyện về những người phụ nữ quí tộc St. Peterburg, vợ của các nhà cách mạng Tháng Chạp. Những người đã nổi dậy chống Nga Hoàng năm 1825 và bị kết án đày biệt xứ Siberia. Những người vợ và hôn thê của các nhà cách mạng Tháng Chạp đã theo chồng đi đày biệt xứ và chia xẻ mọi gian khổ với họ ở Siberia băng giá. Có lẽ tôi cũng không bao giờ thực sự hiểu thấu hành xử cao đẹp của họ và tin rằng chuyện như vậy có thật, nếu không may mắn được quen biết bà. Một phụ nữ thực sự kiên cường, không đầu hàng nghịch cảnh.
Giai đoạn 3 năm ở ATK Việt Bắc cũng là khoảng thời gian duy nhất trong đời bà không được tiếp xúc với piano. Nhưng tình yêu âm nhạc đã đưa bà đến với Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương, nơi lần đầu tiên bà gặp thi sĩ nhạc sĩ Đặng Đình Hưng người lãnh đạo Đoàn lúc đó. Những năm này bà chuyên dạy ký xướng âm cho các Đội văn nghệ đến từ các địa phương và chỉ huy dàn hợp xướng của Đoàn.
Hạnh phúc chỉ thực sự quay lại với bà trong dịp cùng Đội Hợp xướng Hòa bình sang Trung Quốc thu đĩa, chuẩn bị cho Lễ tiếp quản Hà Nội tháng 10.1954. Ở Thượng Hải lần đầu tiên sau 3 năm, bà lại được chạm vào phím đàn piano. Hôm đó bà đã chơi đàn suốt đêm. Sau khi về Hà Nội, bà đã dành toàn bộ tình yêu âm nhạc của mình cho ngành sư phạm âm nhạc Việt Nam. Năm 1955, bà đã cùng với các ông Tạ Phước, Lê Yên, Tô Vũ, Doãn Mẫn, Vũ Đức Tuân, Lều Thọ Hợp thành lập Trường Âm nhạc Việt Nam (tiền thân của Nhạc viện Quốc gia Hà Nội).
Họ đã phải bắt đầu mọi việc từ số không tuyệt đối: không nhạc cụ, không sách nhạc, không đội ngũ giảng viên. Vì là người duy nhất được đào tạo đại học âm nhạc bài bản, bà bắt tay ngay vào việc xây dựng Khoa piano của trường, trực tiếp đào tạo những giảng viên và lứa học sinh đầu tiên, soạn giáo trình và viết nhiều tiểu phẩm trên chất liệu dân ca. Bà là Chủ nhiệm Khoa piano đầu tiên và làm chủ nhiệm khoa lâu nhất đến khi về hưu 1978. Tình yêu âm nhạc to lớn cũng đưa bà trở thành nghệ sỹ piano đầu tiên của Đoàn Ca múa Nhạc Nhân dân Trung ương (tiền thân của Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam).
Năm 1957, vượt qua mọi dư luận và thị phi, bà đã kết hôn với thi sĩ, nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và họ trở thành một đôi đẹp nhất của giới nghệ sỹ Việt Nam lúc đó. Sau này khi đã có nhiều trải nghiệm cuộc sống và có quan hệ thân thuộc với gia đình bà, tôi mới thực sự thấu hiểu thêm một phẩm chất đặc biệt nữa ở bà. Đó là khả năng kỳ diệu hiếm có của bà, luôn giữ được cho mình là một người tự do trong mọi hoàn cảnh. Thế nhưng số phận đối với bà thật là cay nghiệt. Năm 1958, trong lúc bà mang thai người con thứ ba, nghệ sỹ piano xuất chúng nhất lịch sử Việt Nam Đặng Thái Sơn, niềm tự hào âm nhạc tương lai của người Việt, bất hạnh to lớn một lần nữa lại ập đến gia đình bà. Ông Đặng Đình Hưng do liên quan đến vụ Nhân văn Giai phẩm đã bị gạt ra khỏi công việc, bị đẩy ra ngoài đời sống xã hội, bị “rút phép thông công”. Từ đó, ông Hưng chỉ còn là cái bóng của chính mình. Bà phải gánh vác toàn bộ công việc gia đình và cả giang sơn nhà chồng.
Trong khoảng gần 10 năm sau đó, gia đình bà rơi vào một hoàn cảnh vô cùng cực khổ. Đó cũng là thời gian tôi bắt đầu được biết đến gia đình bà. Bà thường phải dậy từ rất sớm và liên tục làm nhiều công việc: dạy học và công việc ở khoa piano trường nhạc, luyện tập biểu diễn, dạy thêm piano kiếm tiền nuôi gia đình và tất nhiên là chợ búa, cơm nước. Cả gia đình 6 người (kể cả con riêng của ông Hưng là ông Đặng Hồng Quang) gồm đến 4 người chơi piano phải ở trong hai phòng nhỏ trên gác hai và ba phố Kỳ Đồng (nay là phố ẩm thực Tống Duy Tân), cạnh đường xe lửa Cửa Nam Hà Nội.
Ấn tượng lớn nhất về bà thời kỳ đó đối với tôi, là sự kính trọng và tình yêu to lớn của học trò dành cho bà. Một người được họ gọi bằng “Má”. Vì bà dù là một người thầy rất nghiêm khắc, khó tính, nhưng lại rất thẳng thắn, công bằng, luôn quan tâm và nghĩ cho học sinh. Đồng thời, trong cuộc sống, bà luôn lạc quan, chân thành, giản dị và dễ gần. Một ấn tượng đặc biệt nữa đọng lại, đó là thái độ của bà đối với những học trò học piano tư. Môn piano từ xưa vốn luôn được coi là một sở thích quí phái. Vì vậy, rất nhiều người trong giới tinh hoa và quan chức Hà Nội muốn gửi gắm các quí cô cho bà. Tuy nhiên, bà đã từ chối nhiều trường hợp, nếu thấy học trò không có năng khiếu hoặc không thiết tha. Với những trường hợp này, bà thường nói thẳng với phụ huynh “Ông bà đừng cho cháu tiếp tục học đàn. Cháu không có năng khiếu. Để cháu học tiếp chỉ phí tiền của ông bà, phí thời gian của cháu và công sức của tôi”. Sau này nghĩ lại, tôi thấy bà thực sự là một người thầy, với đạo đức nghề nghiệp mẫu mực.
Ngoài ra, tuy là một người bộc trực thẳng thắn và có nền tảng văn hóa cao, tinh tế, nhưng bà luôn chân thành, bao dung và đặc biệt là hoàn toàn xa lại với thói nhỏ nhen đố kỵ. Thêm nữa là tình yêu nghề, yêu âm nhạc và yêu học trò vô bờ của bà đã chinh phục tất cả. Có lẽ chính nhờ vậy, mà bà được sự kính trọng và quí mến sâu sắc của đồng nghiệp nói riêng, giới tinh hoa và bình dân Hà Nội, cũng như của mọi tầng lớp người Việt nói chung. Sau này khi ở nước ngoài, bản thân tôi cũng từng nhiều lần ngạc nhiên một cách thú vị, khi chứng kiến tình cảm quí mến như vậy của rất nhiều người Nga, người Ba Lan và các dân tộc khác dành cho bà. Gần đây, khi nhìn lại những người đủ mọi thành phần và dân tộc mà bản thân đã tiếp xúc trong đời, tôi mới chợt ngộ ra: phải chăng nhờ có một nền tảng giáo dục tốt cộng với một khí chất cao quí tự nhiên, mà bà dễ dàng gây được thiện cảm và sự tôn trọng của bất cứ ai tiếp xúc với mình như vậy.
Trong thời gian chiến tranh phá hoại Mỹ, cả gia đình bà theo Trường Âm nhạc Việt Nam đi sơ tán về Bắc Giang, chia xẻ mọi gian khổ và hiểm nguy của cuộc chiến, như tất cả mọi gia đình miền Bắc Việt Nam lúc đó. Con trai út của bà, niềm tự hào âm nhạc Việt Nam tương lai, ngoài chuyện tiếp tục học piano, anh còn là một “chuyên gia” nuôi gà và một “thợ” mò cua bắt ốc. Đồng thời là một học sinh giỏi, từng dự kỳ thi toán học sinh giỏi tỉnh Bắc Giang. Hiện nay, khi nhắc đến sự nghiệp biểu diễn và giảng dậy âm nhạc quốc tế thành công của anh, người ta thường đề cập đến một vài yếu tố: tài năng thiên bẩm di truyền từ cha, may mắn được phát hiện sớm và được mẹ vun đắp, khi sang Liên Xô học đại học gặp được thầy giỏi, sự say mê và chuyên tâm cá nhân đặc biệt. Tất cả đều đúng nhưng theo tôi có lẽ chưa đủ.
Việc anh thành công trong nghệ thuật âm nhạc cổ điển đỉnh cao, một lĩnh vực nổi tiếng bảo thủ, nổi tiếng là tinh tế và bắc bậc kiêu kỳ. Một lĩnh vực rất khó tiếp nhận những người khác đẳng cấp văn hóa, phải chăng còn nhờ một yếu tố khác nữa. Như chính anh cho biết, giải nhất anh đoạt được trong cuộc thi Âm nhạc Quốc tế Chopin năm 1980 chỉ là một tấm bằng đặc biệt cao cấp, một tấm vé để vào cửa của giới Âm nhạc Cổ điển quốc tế đỉnh cao. Có tiếp tục trụ được hay không là vấn đề khác.
Chính vì vậy, tôi nghĩ có lẽ việc anh Đặng Thái Sơn thành công giới Âm nhạc Cổ điển quốc tế đỉnh cao, còn nhờ một cơ duyên khác nữa. Đó là việc anh đã phần nào đã thừa kế được khí chất cao qui tự nhiên từ bà Thái Thị Liên. Bà không chỉ là người thầy lớn nhất của anh, người đã nuôi dưỡng tài năng của anh từ nhỏ. Bà Thái Thị Liên còn một cố vấn nghiêm khắc và thông thái, đồng hành rất nhiều năm, trong sự nghiệp biểu diễn quốc tế của Đặng Thái Sơn sau 1980. Đối với Việt Nam, bà Thái Thị Liên là một công thần của nền âm nhạc cổ điển Việt Nam, một người thầy lớn của nhiều thế hệ nghệ sỹ và nhà sư phạm piano Việt Nam. Những người thành đạt cả ở Việt Nam lẫn trên thế giới. Trong số này, đặc biệt có bà Trần Thu Hà và ông Đặng Thái Sơn những người con của bà.
Đối với tôi, bà Thái Thị Liên là một người Việt cao quí. Tôi tuyệt đối tin rằng, khí chất cao quí của những người như các bà góp phần to lớn vào việc nâng cao tầm vóc văn hóa của cả dân tộc Việt Nam. Một điều, có lẽ cũng tương tự như việc tiếp thu và truyền bá âm nhạc cổ điến Châu Âu tại Việt Nam… Dù đã biết bà Thái Thị Liên rất nhiều năm, nhưng sự ngưỡng của tôi đối với bà chỉ đến một cách từ từ, sau nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, sau khi từ xa nhìn lại. Trong con mắt tôi, bà Thái Thị Liên là người đẹp nhất mà tôi từng gặp trong đời. Một người đẹp từ ý nghĩ bên trong, đến hình thức và mọi cử chỉ hành vi bên ngoài./.