
Sản xuất trong nông nghiệp tại khu vực ĐBSCL, nhất là ở các khu vực ven 2 tuyến sông Tiền và sông Hậu thường chịu ảnh hưởng của triều cường, khô hạn và mặn xâm nhập. Từ sau đợt hạn mặn năm 2015 - 2016, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt và có nghiên cứu để đầu tư 11 công trình trọng yếu.
Theo dự báo của Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, mặn xâm nhập mùa khô 2024 - 2025 ở mức cao hơn trung bình nhiều năm tại ĐBSCL. Tháng 2 đến tháng 4 là thời kỳ mặn cao, vì vậy, các địa phương ven biển cần chủ động các giải pháp ứng phó phòng chống hạn mặn phù hợp với điều kiện của vùng.
Vùng thượng Đồng bằng sông Cửu Long, nguồn nước đủ, khó khăn chủ yếu ở vùng núi cao Tịnh Biên, Tri Tôn cần thực hiện các biện pháp trữ nước và tưới tiết kiệm nước.
Vùng giữa ĐBSCL nguồn nước cơ bản đảm bảo, vận hành hợp lý các công trình kiểm soát mặn và tích nước, khi lấy ngọt hoặc tưới cho cây trồng cần kiểm tra chặt chẽ độ mặn, nhất là đối với cây ăn quả.
Vùng ven biển ĐBSCL xâm nhập mặn bất thường có thể làm ảnh hưởng đến nguồn nước và sản xuất ở các hệ thống thuỷ lợi ven biển như Gò Công, Bắc Bến Tre, vùng ven biển Trà Vinh và hệ thống Long Phú - Tiếp Nhật. Do vậy, cần chuẩn bị các phương án ứng phó và tích trữ và sử dụng nước hợp lý, đặc biệt là nước đảm bảo cho các vùng ăn trái thuộc huyện Châu Thành, Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc - Nam thuộc tỉnh Bến Tre; huyện Kế Sách - tỉnh Sóc Trăng.
Từ sau đợt hạn mặn năm 2015 - 2016, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo rất quyết liệt và có nghiên cứu để đầu tư 11 công trình trọng yếu, trong đó có hệ thống cống Cái Lớn - Cái Bé. Công trình thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé lớn nhất miền Tây khi đi vào vận hành giai đoạn 1, sẽ giúp kiểm soát độ mặn nguồn nước không vượt quá giới hạn, tạo điều kiện sản xuất ổn định cho diện tích gần 380.000 ha, hầu hết là đất sản xuất nông nghiệp, thủy sản thuộc 4 tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau và Bạc Liêu.
Theo ông Trần Duy An, Phó Trưởng phòng Quy hoạch Thủy lợi, Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam cho biết, các công trình lớn được xây dựng như Cái Lớn - Cái Bé, Ninh Quới hỗ trợ kiểm soát vùng mặn xâm nhập. Tuy nhiên, nhiều hệ thống thủy lợi vẫn chưa hoàn chỉnh, thiếu khả năng trữ nước, hệ thống trạm bơm điện còn thiếu so với nhu cầu.
Về mục tiêu phòng chống thiên tai đến năm 2030, ông Trần Duy An cho biết, sẽ phòng chống hạn hán cho diện tích có nguy cơ ở vùng giữa, vùng ven biển khoảng 530.000 ha thuộc các tiểu vùng ngọt hóa; giảm thiểu tác động xâm nhập mặn cho 600.000 ha khu vực ven biển thuộc vùng dự án thủy lợi. Cùng với đó ông An cũng dự báo diễn biến thiên tai vùng ĐBSCL phức tạp, khó lường hơn do biến đổi khí hậu và các tác động từ khai thác tài nguyên ở thượng nguồn sông Mê Kông.

Cũng theo ông Trần Duy An, hạ tầng thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong giảm thiểu và phòng chống thiên tai đối với vùng ĐBSCL, hiện đã từng bước được hoàn thiện, mặc dù trong những năm cực đoan về hạn hán, ngập lụt vẫn còn bộc lộ nhiều rủi ro, đòi hỏi phải hoàn thiện và tiếp cận ở mức độ quản lý rủi ro, đồng bộ cùng các giải pháp mềm khác.
“Giai đoạn sau 2030 thì tùy theo mức độ xâm nhập mặn có thể xem xét, nghiên cứu triển khai xây dựng các cống cửa sông lớn như cống Vàm Cỏ, Cổ Chiên, Sông Hậu, Hàm Luông và hoàn thiện hệ thống phân ranh mặn, ngọt. Nạo vét các trục kênh, tăng cường khả năng trữ nước cũng như chuyển nước từ vùng giữ xuống cho vùng ven biển. Thứ ba là xây dựng 13 công trình trữ nước, ưu tiên cho vùng ven biển xa sông gần biển, ưu tiên cho cấp nước sinh hoạt với 13 công trình với quy mô hơn 100 triệu m2, mở rộng công suất và đường ống cấp nước sinh hoạt nông thôn”, ông Trần Duy An chia sẻ.
Thời điểm hiện nay, các địa phương vùng ĐBSCL đã chủ động các giải pháp về nguồn nước trong sản xuất và sinh hoạt. Cùng với đó tiến hành nạo vét các kênh, rạch để trữ nước, đảo bảo trong tưới tiêu cho cây trồng. PGS-TS Tô Văn Thanh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cho biết, hiện nay các như Bạc Liêu, Kiên Giang đã kiểm soát được mặn bằng các hệ thống thủy lợi lớn như Cái Lớn - Cái Bé. Để đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất cần giữ nước nội đồng nhằm phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt, cùng với đó là chủ động tích nước vào các bể chứa để giải quyết vấn đề nước sinh hoạt.
“Bộ từ nhiều năm nay đang nghiên cứu vấn đề chuyển nước từ vùng nhiều nước sang vùng thiếu nước, tức là từ Sông Hậu qua Cái Lớn - Cái Bé rồi qua kênh quản lộ Phụng Hiệp, cái này cũng đang hình thành các nghiên cứu và tới đây có thể đưa vào trung hạn 2026 – 2030. Trước hết đầu tư các công trình như cống Tắc Thủ, một số công trình nữa để đảm bảo kiểm soát mặn từ Cà Mau”, PGS-TS Tô Văn Thanh nói.
Mới đây, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và PTNT (trước khi sáp nhập) đã kiểm tra và triển khai vận hành tạm thời Công trình cống âu Rạch Mọp thuộc Dự án Công trình kiểm soát nguồn nước bờ Nam sông Hậu, tỉnh Sóc Trăng để phục vụ nhu cầu cấp bách về ngăn mặn xâm nhập sâu vào nội đồng. Dự án có tổng mức đầu tư 900 tỷ đồng, ngoài Cống âu Rạch Mọp còn có các công trình Cống Mương Khai 2, Cống Trà Ếch, Cống Cái Trưng, Cống Cau Trường, Cống Trà Quýt, với mục tiêu sẽ kết hợp cùng với các công trình đã xây dựng nhằm tạo nguồn ngọt, kiểm soát nguồn nước, triều cường, bảo vệ các vùng sản xuất và cơ sở hạ tầng (như giảm ngập do hiện tượng sụt lún đất, nước biển dâng và triều cường gây ra) cho một phần khu vực phía nam sông Hậu của tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Hậu Giang.
Theo đánh giá, dự án còn có nhiệm vụ kiểm soát mặn, giữ ngọt tạo điều kiện sản xuất ổn định, bền vững cho vùng diện tích tự nhiên trên 19.000 ha trên địa bàn huyện Kế Sách, Châu Thành, Long Phú, TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Giảm thiểu ảnh hưởng do hạn mặn gây ra và tạo nguồn hỗ trợ cấp nước ngọt ứng phó trong các đợt mặn lên cao trên sông Hậu cho diện tích tự nhiên trên 36.700 ha địa bàn huyện Kế Sách, Châu Thành tỉnh Sóc Trăng và huyện Châu Thành, thị xã Ngã Bảy tỉnh Hậu Giang.

Cùng với cống âu Rạch Mọp, hiện trên địa bàn Sóc Trăng còn có cống Mương Khai 2, cống Trà Ếch, cống Cái Trưng, cống Cau Trường, cống Trà Quýt giúp bảo đảm nguồn nước sản xuất, sinh hoạt, sinh kế, sức khỏe của người dân.
Tỉnh Sóc Trăng đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ vốn để làm bờ kè cống âu Rạch Mọp và kè rạch Phụng An nhằm ngăn chặn sạt lở; cũng như sớm triển khai âu thuyền Bãi Xào và âu thuyền Đại Ngãi để thực hiện việc trữ nước ngọt cho địa phương.
Về diện mạo giao thông thủy, bộ, trước đây, người dân hai bên bờ sông chỉ có thể qua lại bằng cầu Rạch Mọp trên tuyến quốc lộ 91, tức quốc lộ Nam sông Hậu. Với cống âu Rạch Mọp kết hợp cầu giao thông nông thôn song hành rộng 3,5 m có tải trọng 8 tấn này sẽ giúp người dân cùng các phương tiện xe cộ dưới trọng lượng quy định qua lại dễ dàng, có thêm hướng lựa chọn, giảm áp lực qua cầu Rạch Mọp hiện hữu.
Công trình cống âu Rạch Mọp khi vận hành chính thức sẽ đồng bộ với các công trình thủy lợi lớn khác của vùng đồng bằng song Cửu Long, giúp bảo vệ hàng chục ngàn hecta đất sản xuất nông nghiệp của người dân, trong đó có gần 20.000 ha của tỉnh Sóc Trăng./.