Chuyển hóa nguồn gen thành giá trị kinh tế

Việc bảo tồn gen quý cần chủ động thương mại hóa, đưa vật liệu di truyền vào sản xuất, hình thành sản phẩm có giá trị cao, có thể cạnh tranh với bò Kobe, cá hồi Na Uy, bò Waavu…
bao-ton-gen-dnktx3-1748251289.JPG
Phòng Thí nghiệm Tái lập chương trình tế bào, Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh đã và đang nghiên cứu các đề tài liên quan đến bảo tồn các nguồn gen động vật quý hiếm.

Nguồn gen được coi là tài sản quốc gia, là vật liệu di truyền cho chọn tạo giống sinh vật, nguồn tài nguyên sinh học để phát triển khoa học, kinh tế-xã hội, môi trường và quốc phòng, an ninh. Do đó, việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen là nhiệm vụ có tính chiến lược và cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.

Việt Nam xếp thứ 14 trên thế giới về các quốc gia có mức độ đa dạng sinh học với nhiều loài động, thực vật, trong đó nhiều loài (chiếm khoảng 6,5% số loài có trên thế giới) có giá trị sử dụng cao trong phạm vi quốc gia và quốc tế.

Theo thống kê hiện nay, Việt Nam có khoảng 62.600 loài sinh vật đã được xác định, trong đó hơn 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước; 3.500 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt; 1.932 loài động vật có xương sống trên cạn và hơn 11.000 loài sinh vật biển... Trong bối cảnh hiện nay, biến đổi khí hậu trở nên nghiêm trọng hơn và ngày càng tác động tiêu cực, gây xói mòn, mất mát tài nguyên di truyền, vì thế vấn đề bảo tồn và khai thác, sử dụng bền vững nguồn gen càng trở nên cấp thiết.

GS. TS. Chu Hoàng Hà, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho rằng, theo xu hướng hiện nay, Việt Nam hướng tới thúc đẩy phát triển nền kinh tế dựa trên nền tảng sinh học, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Cách mạng công nghiệp 4.0 đã cho thấy tầm quan trọng và vai trò của nguồn gen bản địa trong phát triển kinh tế-xã hội.

Do vậy, triển khai Chương trình cần tiếp tục ưu tiên phát triển nghiên cứu cơ bản, chuyên sâu về nguồn gen (số hóa gen theo chuẩn quốc tế, duy trì bảo tồn, đăng ký sở hữu trí tuệ...) kết hợp với nghiên cứu truyền thống trên các nguồn gen động vật, thực vật và vi sinh vật

Theo bà Nguyễn Giang Thu, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), bảo tồn và khai thác hiệu quả nguồn gen bản địa là trọng tâm trong chiến lược phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững và có năng lực cạnh tranh quốc tế.

Từ năm 1989, Viện Chăn nuôi đã được giao thực hiện nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen vật nuôi như một hoạt động thường xuyên. Giai đoạn 2021- 2025, Viện đã bảo tồn thành công 21 nguồn gen gia súc, gia cầm; 3 nguồn gen ong và 7 loại vật liệu di truyền (tinh, phôi, tế bào soma), bằng cả phương pháp in-situ và ex-situ theo chuẩn của Tổ chức Thú y thế giới (FAO). Đáng chú ý, 6 nguồn gen mới đã được thu thập, trong đó có 4 nguồn năm trong danh mục pháp lý cần bảo tồn.

 Bên cạnh đó, vi sinh vật thú y là nền tảng cho sản xuất vaccine, chế phẩm sinh học và kiểm nghiệm. Trung tâm Kiểm nghiệm đã lưu giữ 42 giống vi sinh vật, giải mã 38/42 giống và sử dụng cho hơn 1.360 lô kiểm nghiệm vaccine trong 5 năm qua. Viện Thú y cũng đã bảo quản 36 chủng vi sinh vật như virus cúm, Salmonella, Campylobacter… nhiều giống đã được xác định gen độc lực, kháng thuốc và đăng ký quốc tế.

Hiện, 57 nguồn gen thủy sản và 15 nguồn gen vi tảo đang được bảo tồn tại các viện nghiên cứu chuyên ngành. Các nguồn gen được đánh giá, lưu trữ và tư liệu hóá nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, nhân giống và phát triển sản phẩm. Một số loài đặc hữu như cá dẩm xanh, cá anh vũ, cá song da báo… đã được phục hồi. Một số giống như cá song vua, cá hỗi vân, cá rô phi đã được thương mại hóa thành công.

Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến, công tác bảo tồn mới chỉ là bước khởi đầu: “Không thể chỉ cất giữ gen quý như bảo vật trong tủ kính. Cần chủ động thương mại hóa, đưa vật liệu di truyền vào sản xuất, hình thành sản phẩm có giá trị cao, có thể cạnh tranh với bò Kobe, cá hồi Na Uy, bò Waavu…”

Nhiều chuyên gia cho rằng, rào cản lớn nhất hiện nay không phải là số lượng nguồn gen, mà là khả năng làm chủ công nghệ để giải mã, đánh giá và khai thác hiệu quả các nguồn gen quý. Việc áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ gen trong sản xuất là giải pháp giúp ngành chăn nuôi và thủy sản thoát khỏi thế bấp bênh, đồng thời xây dựng được thương hiệu sản phẩm Việt trên thị trường quốc tế.

Nguồn gen vật nuôi và thủy sản là tài sản chiến lược quốc gia, đóng vai trò then chốt trong chọn tạo giống mới, nâng cao năng suất và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Công tác bảo tồn cần tiếp cận toàn diện, từ hoàn thiện hành lang pháp lý, ứng dụng khoa học công nghệ đến đẩy mạnh chia sẻ dữ liệu giữa các vùng, ngành.

Việc ưu tiên là bảo tồn các giống vật nuôi, thủy sản bản địa quý hiếm, những nguồn gen đang đứng trước nguy cơ mai một do tác động môi trường và sự lấn át của giống ngoại nhập. Công nghệ sinh học và bảo tồn gen phải như “dây diều” để đưa sản phẩm chăn nuôi, thủy sản Việt Nam vươn ra các thị trường quốc tế. Đây là con đường để ngành chăn nuôi, thủy sản tạo dựng thương hiệu riêng cho nông sản Việt./.

Hội thảo khoa học “Đánh giá công tác bảo tồn nguồn gen giai đoạn 2020 – 2025, định hướng 2026 – 2030” trong các lĩnh vực thủy sản, chăn nuôi và thú y được tổ chức ngày 08/5/2025 tại TP. Hồ Chí Minh, do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn tổ chức. Hội thảo đã tổng kết kết quả triển khai các chương trình bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn gen động vật quý hiểm trong chăn nuôi và thủy sản, đồng thời định hình chính sách, định hướng khoa học – công nghệ cho giai đoạn tiếp theo.

Đăng ký đặt báo