Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2024 tăng 0,29%

Theo Tổng cục thống kê, giá lương thực, thực phẩm tăng cao tại các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng trực tiếp bởi bão và hoàn lưu bão; một số địa phương thực hiện tăng học phí; giá thuê nhà ở tăng là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2024 tăng 0,29%.
chi-so-gia-tieu-dung-tren-dia-ban-ha-noi-tang-051-20240801105730-1728186322.jpg
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2024 tăng 0,29%. (Ảnh minh họa)

Theo Báo cáo Về tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2024 tăng 0,29% so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng Chín tăng 2,18% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2,63%.

Lý giải nguyên nhân tăng CPI, Tổng Cục thống kê cho biết, giá lương thực, thực phẩm tăng cao tại các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng trực tiếp bởi bão và hoàn lưu bão; một số địa phương thực hiện tăng học phí theo lộ trình của Nghị định số 97/2023/NĐ-CP; giá thuê nhà ở tăng là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2024 tăng.

CPI bình quân quý III/2024 tăng 3,48% so với quý III/2023. Tính chung chín tháng năm nay, CPI tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,69%.

Trong mức tăng 0,29% của CPI tháng 9/2024 so với tháng trước, có 09 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 02 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.

CPI bình quân quý III/2024 tăng 3,48% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,24%; hàng hóa và dịch khác tăng 6,94%; giáo dục tăng 5,4%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,98%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,98%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,4%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,21%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,24%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,15%; bưu chính, viễn thông giảm 0,74%; giao thông giảm 0,88%;

CPI bình quân chín tháng năm 2024 tăng 3,88% so với bình quân cùng kỳ năm 2023, do một số nguyên nhân chủ yếu sau:

Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống bình quân chín tháng năm 2024 tăng 4% làm CPI chung tăng 1,34 điểm phần trăm. Trong đó, chỉ số giá: Nhóm lương thực tăng 14,23% (tác động làm CPI tăng 0,52 điểm phần trăm) do giá gạo tăng 18,87% tăng theo giá gạo xuất khẩu khi nguồn cung gạo toàn cầu giảm bởi ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nhu cầu tiêu dùng tăng trong dịp Lễ, Tết, bão lũ (tác động làm CPI chung tăng 0,48 điểm phần trăm); nhóm thực phẩm tăng 2,31% (tác động làm CPI chung tăng 0,49 điểm phần trăm); nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 4,03% do nhu cầu tiêu dùng và chi phí nhân công tăng.

Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,33% làm CPI chung tăng 1 điểm phần trăm, chủ yếu do chỉ số giá nhà ở thuê và nhà chủ sở hữu tính quy đổi tăng 4,61% (tác động làm CPI tăng 0,48 điểm phần trăm); chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 8,08% (tác động làm CPI chung tăng 0,27 điểm phần trăm) do nhu cầu sử dụng điện tăng cùng với việc EVN điều chỉnh mức bán lẻ giá điện bình quân trong năm 2023. Bên cạnh đó, chỉ số giá nước sinh hoạt bình quân chín tháng tăng 9,42% so với cùng kỳ năm trước.

thi-truong-vang-1728186322.jpg
Chỉ số giá vàng tháng 9/2024 tăng 1,88% so với tháng trước. (Ảnh minh họa)

Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 7,51% làm CPI chung tăng 0,46 điểm phần trăm, do trong năm học 2023-2024 và 2024-2025 một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng mức học phí.

Chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,46% làm CPI chung tăng 0,4 điểm phần trăm, do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT của Bộ Y tế từ ngày 17/11/2023.

Chỉ số giá nhóm giao thông tăng 1,87% làm CPI chung tăng 0,18 điểm phần trăm, chủ yếu do giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 46,67%; bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 4,3%.

Bên cạnh đó, yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI chín tháng năm 2024 là: Chỉ số giá nhóm bưu chính, viễn thông chín tháng năm 2024 giảm 1,19% do giá điện thoại thế hệ cũ giảm khi các doanh nghiệp áp dụng chương trình giảm giá, kích cầu đối với các dòng điện thoại thông minh đưa ra thị trường sau một thời gian.

Về lạm phát, lạm phát cơ bản tháng 9/2024 tăng 0,27% so với tháng trước, tăng 2,54% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân chín tháng năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,69% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (3,88%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế và xăng dầu là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 27/9/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.589,67 USD/ounce, tăng 3,77% so với tháng 8/2024. Ngày 18/9/2024, FED đã quyết định cắt giảm lãi suất 0,5 điểm phần trăm xuống còn 4,75%-5%/năm; cùng với đó căng thẳng tại Trung Đông ngày càng gia tăng, khiến các nhà đầu tư chuyển sang vàng như một kênh trú ẩn đã đẩy giá vàng liên tục tăng cao. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 9/2024 tăng 1,88% so với tháng trước; tăng 22,66% so với tháng 12/2023; tăng 32,27% so với cùng kỳ năm trước; bình quân chín tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 26,27%.

Tính đến ngày 27/9/2024, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 100,95 điểm, giảm 1,4% so với tháng trước khi FED quyết định giảm lãi suất khiến giá đồng USD liên tục giảm. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 25.329 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2024 giảm 1,79% so với tháng trước; tăng 1,7% so với tháng 12/2023; tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân chín tháng năm 2024 tăng 5,46%./.

Hương Lan