Năm 1945, chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc. Ở Việt Nam, phát xít Nhật tìm cách hất cẳng thực dân Pháp và tăng cường đàn áp, vơ vét, bóc lột Nhân dân ta. Thực tế, từ khi nhảy vào chiếm Đông Dương, phát xít Nhật đã để lại bao nỗi kinh hoàng cho những người từng chứng kiến. Với âm mưu thâm độc hòng đẩy “dân chúng vào cảnh đói, rét hơn trước để không còn tinh thần, lực lượng mà chiến đấu được nữa.
Là người chứng kiến thảm cảnh chết chóc ấy, tháng 4-1945, Vespy - một người Pháp, đã ghi lại: “Họ đi thành rặng dài bất tận gồm cả gia đình, già lão có, trẻ con có, đàn ông có, đàn bà có, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân loã lồ, gầy guộc giơ xương ra run rẩy, ngay cả đến những thiếu nữ đã đến tuổi dậy thì, đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại để vuốt mắt cho một người trong bọn họ đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng hãy còn che thân người đó. Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành rơm vừa làm quần áo, vừa làm vải liệm, người ta thực lấy làm xấu hổ thay cho cái kiếp con người".
Trong tài liệu “Bằng chứng và tư liệu Pháp có liên quan tới chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam”, một tác giả cho biết rằng: “Nạn đói to lớn năm 1944-1945 đã cướp đi hơn 2 triệu người là kết quả không tránh khỏi của một đường lối chính trị có dụng ý theo đuổi một mục đích kép: Làm chết một bộ phận quan trọng dân chúng và nhấn chìm số còn lại trong nạn đói; đó là cái dây phanh hữu hiệu để hãm bớt nhiệt tình yêu nước mà Thống sứ Bắc Kỳ Sôve đã tìm thấy. Mục đích kinh tế là: Cho phép một vài công ty Pháp (Denis Frèros), Nhật (Mitsui, Mitsubishi...) tích trữ hàng triệu tấn gạo được mua với giá rẻ để rồi lại bán giá đắt để hưởng lợi Đồng thời dễ dàng tuyển mộ những cu ly cho các đồn điền và hầm mỏ”.
Cũng có nhận định cho rằng, việc tìm hiểu, nghiên cứu về nạn đói năm 1945 ở Việt Nam và những hậu quả của nó không chỉ có ý nghĩa đối với các nhà nghiên cứu lịch sử để tìm hiểu về hiện thực lịch sử đã diễn ra; mà còn có tác dụng đối với việc lên án tội ác của chủ nghĩa phát xít, sự tàn bạo của chiến tranh và tăng cường củng cố hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới, nhất là trong bối cảnh Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Nạn đói năm 1945 đã nhắc nhở chúng ta về sự tàn bạo của các thế lực ngoại xâm và sự tàn khốc của chiến tranh. Đồng thời, như dân gian vẫn nói “tức nước vỡ bờ”, khi phát xít và bè lũ tay sai dồn nhân dân ta vào bước đường cùng, thì cũng sẽ thổi bùng lên ngọn lửa căm thù và tinh thần yêu nước, tinh thần quật khởi mạnh mẽ nhất.
Chính sách bóc lột dã man của phát xít Nhật và bè lũ tay sai, cùng với nạn đói khủng khiếp đã “đổ thêm dầu vào lửa”, thổi bùng phong trào đấu tranh cách mạng dưới nhiều hình thức như biểu tình, mít tinh chống thuế, chống đi phu, đi lính, chống nhổ lúa trồng đay,... ở khắp các địa phương trong cả nước. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) đã phân tích, nhận định tình hình mới và ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; đồng thời, quyết định phát động cao trào đánh đuổi phát xít Nhật cứu nước trong toàn quốc.
Có thể nói, khẩu hiệu “Phá kho thóc, cứu người chết đói” ở các địa phương đã làm cho nhân dân càng thêm tin tưởng vào sức mạnh đại đoàn kết; đồng thời, trình độ giác ngộ cách mạng của giai cấp nông dân được nâng cao, càng củng cố quyết tâm đánh đổ bọn phát xít và bè lũ phong kiến. Khí thế cách mạng ngày càng dâng cao, càng làm cho thế lực của địch nhiều nơi trở nên suy yếu. Hệ thống cai trị của địch từ cấp cơ sở (làng, tổng) đến cấp huyện, cấp tỉnh ngày càng lung lay, góp phần thúc đẩy thời cơ khởi nghĩa chín muồi. Các địa phương đã chủ động tiến hành khởi nghĩa thắng lợi, đập tan bộ máy thống trị của thực dân, phong kiến, bảo vệ thành quả cách mạng.
Xuất phát từ việc nhận định đúng tình hình thực tế, cũng như thời cơ cách mạng, các địa phương đã phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở cơ sở từ miền xuôi, đồng bằng và thành phố: nơi nào có phong trào mạnh, sẽ tổ chức khởi nghĩa trước, sau đó tập trung hỗ trợ nơi phong trào còn yếu; và giành chính quyền ở nơi địch yếu nhất, tiến đến giành chính quyền trên phạm vi toàn huyện, toàn tỉnh. Thành công của tổng khởi nghĩa giành chính quyền là thành quả từ chính sách đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ; đồng thời kiên quyết trấn áp và vạch mặt bọn phản động chống phá cách mạng.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo. Thắng lợi ấy cũng minh chứng cho bản lĩnh và trí tuệ của Ðảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn, biết chớp thời cơ giành chính quyền nhưng quan trọng nhất đó là thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quật khởi dân tộc ta được tích tụ từ ngàn đời./.