Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam, mỗi năm tổng lượng phụ phẩm trong nông nghiệp của Việt Nam ước tính gần 160 triệu tấn. Trong đó, có khoảng 90 triệu tấn phụ phẩm sau thu hoạch từ cây trồng, từ quá trình chế biến nông sản của ngành trồng trọt (chiếm 56,2%); 62 triệu tấn phân gia súc, gia cầm từ ngành chăn nuôi (chiếm 38,7%); 6 triệu tấn từ ngành lâm nghiệp (chiếm 3,7%) và khoảng gần 1 triệu tấn từ ngành thủy sản (0,6%).
Bên cạnh đó, hàng năm phần sinh khối phụ phẩm từ các cây trồng chính như lúa, ngô, mía, rau các loại có thể cung cấp tương đương với khoảng 43 triệu tấn hữu cơ, 1,8 triệu tấn đạm urê, 1,6 triệu tấn supe lân đơn và 2,2 triệu tấn kali sulfat - con số khổng lồ để bù đắp dinh dưỡng trong đất và sử dụng trong canh tác nông nghiệp. Song, các phần dinh dưỡng này gần như bị bỏ phí và chưa có các cơ chế khuyến khích tái sử dụng.
Tương tự như vậy trong ngành chăn nuôi, mới chỉ tận dụng được 23% chất thải để sản xuất phân bón hữu cơ.
Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, thời gian qua, phế phẩm, phụ phẩm trong nông nghiệp đang dần trở thành nguồn tài nguyên lớn, là đầu vào quan trọng cho việc sản xuất nhiều lĩnh vực khác.
Đơn cử, các phụ phẩm trong trồng trọt được dùng sản xuất viên nén, cồn công nghiệp, phát điện sinh khối, làm đệm lót sinh học chăn nuôi, phân hữu cơ,... Chất thải chăn nuôi được đem ủ phân compost, xử lý bằng sản phẩm vi sinh vật, công trình khí sinh học và sử dụng trực tiếp phân tươi làm phân bón. Bột thịt xương, bột thịt, bột gia cầm, bột lông vũ và mỡ động vật là các sản phẩm chính của ngành chế biến, các phụ phẩm giết mổ cũng bắt đầu được tận dụng để sản xuất thức ăn chăn nuôi…
Khoảng 90% phụ phẩm chế biến thủy sản đã được thu gom, chế biến thành các sản phẩm có giá trị để sản xuất thức ăn, chế biến thành các sản phẩm có giá trị cao hơn như collagen, hay một số thực phẩm ăn liền...
Thậm chí, nhiều chuyên gia còn coi phụ phẩm nông nghiệp là nguồn tài nguyên tái tạo sẽ mang lại giá trị cao, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính.
“Chỉ 1 triệu tấn phụ phẩm của ngành thủy sản, nếu đưa hết vào chế biến ra các sản phẩm giá trị cao có thể thu thêm 4-5 tỷ USD. Trong khi Nông nghiệp nước ta có 160 triệu tấn phụ phẩm/năm, nhưng "mỏ vàng" bị bỏ phí”, ông Nam nhấn mạnh.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Nam cũng chỉ rõ, việc sử dụng, chế biến phế phụ phẩm nông nghiệp hiện nay vẫn chưa đồng bộ, chưa hiệu quả, lãng phí rất lớn, chưa tạo ra những sản phẩm giá trị gia tăng cao và chưa xây dựng được thương hiệu có uy tín trên thị trường toàn cầu.
Theo ông Nam, hiện có nhiều mô hình rất hay áp dụng nguyên lý kinh tế tuần hoàn gắn với tăng trưởng xanh, sử dụng phụ phẩm trong nông, lâm, thuỷ sản là nguồn tài nguyên tái tạo. Một số HTX và hộ nông dân đã xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học để dùng làm phân bón cho cây lúa…
Thị trường thu gom, đóng gói, vận chuyển và buôn bán rơm lúa ở vùng ĐBSCL ngày càng phát triển. Vụ Đông Xuân năm 2021, giá bán rơm khoảng 400 đồng/kg. Như vậy, ngoài thu thóc, gặt xong có thể thu thêm trên 500.000 đồng/ha rơm nếu đem bán.
Hay như từ mía, mật rỉ, bã sắn,... có thể sử dụng nguyên liệu sản xuất ethanol. Nguồn sản xuất nhiên liệu sinh học gồm tinh bột và rỉ đường có tổng sản lượng khoảng 87 triệu lít/năm, tương đương 57,4 triệu tấn dầu thô. Phụ phẩm nông nghiệp cũng được chế biến thành thức ăn gia súc dạng viên. Các mặt hàng này xuất khẩu mang lại giá trị rất cao, khoảng 1-5 USD/kg.
Trong lĩnh vực thủy sản, có doanh nghiệp đã đầu tư công nghệ hiện đại chế biến từ phụ phẩm thủy sản thành bột cá - nguyên liệu cho thức ăn chăn nuôi, collagen và gelatin từ da cá tra, snack da cá tra, dầu ăn từ mỡ cá tra, đạm thủy phân từ cá tra... “Ngành chế biến phụ phẩm thủy sản ở nước ta mới đạt gần 300 triệu USD năm 2020. Nếu khai thác hết nguồn phụ phẩm gần 1 triệu tấn bằng các công nghệ cao có thể thu về từ 4-5 tỷ USD”. Từ đó có thể thấy, nếu tận dụng hết nguồn phụ phẩm nông nghiệp có thể cho thu tới hàng chục tỷ USD mỗi năm.
Ngoài ra, ông Nam cũng chỉ rõ, nước ta đang phải đối mặt với những thách thức về ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên từ sản xuất nông nghiệp. Vậy nên, tương lai nền nông nghiệp Việt cần dựa vào tri thức và công nghệ để phát triển nông nghiệp tuần hoàn, việc này đã và đang trở thành xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới.
Không chỉ vậy, hầu hết các hiệp định thương mại Việt Nam tham gia hiệu đều quy định về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải, chất thải, khí thải. Đây là tiền đề để thúc đẩy nền nông nghiệp Việt tăng tốc chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp tuần hoàn, hướng đến nông nghiệp tăng trưởng xanh. Do đó, để phát huy giá trị của các nguồn phụ phẩm nông nghiệp, ông Nam cho rằng cần giải thích cho người nông dân hiểu, nâng cao nhận thức, chuyển đổi tư duy của họ trong quá trình thực hiện chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp.