Hiện nay, thị trường Trung Đông - nơi tập trung đông đảo người Hồi giáo đang được các DN sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam quan tâm và cố gắng tìm hiểu, khai thác thông tin, tập quán kinh doanh, chính sách thương mại và những tiêu chuẩn chỉnh, quy định chỉnh sửa và cập nhật của từng mặt hàng tiềm năng khi giao thương. Do đó, việc nhận thức rõ tiềm năng của thị trường, từ đó thúc đẩy các sản phẩm nhất là các sản phẩm nông sản Halal vào khu vực Trung Đông là việc làm vô cùng cần thiết.
Trung Đông được đánh giá là thị trường cao cấp và rộng mở
Thông tin tổng quan về thị trường khu vực Trung Đông, bà Nguyễn Minh Phương, Trưởng phòng Tây Á, châu Phi, Vụ thị trường châu Á - châu Phi (Bộ Công Thương) cho biết, với dân số vào khoảng 2,4 tỷ, người Hồi giáo hiện chiếm 1/4 dân số thế giới và tốc độ gia tăng vào khoảng 1,5%/năm. Đặc biệt, người Hồi giáo tại thị trường Trung Đông có mức thu nhập rất cao nên được đánh giá là thị trường cao cấp và rộng mở. Tương ứng với điều này, tiêu chuẩn cho sản phẩm nhập khẩu vào thị trường khu vực Trung Đông sẽ rất khắt khe, nhất là đối với các sản phẩm Halal.
Đại diện Vụ Thị trường châu Á – châu Phi cũng thông tin, năm 2022 kim ngạch thương mại của các nước Hồi giáo vào khoảng 2.300 tỷ USD với các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm và thời trang. Do đó, các DN của Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng để tiếp cận thị trường các nước Hồi giáo, khi các ngành công nghiệp tại đây không thực sự phát triển bằng Việt Nam, nhất là đối với ngành chế biến thực phẩm.
“Người tiêu dùng ở các nước Hồi giáo họ chi rất mạnh khi thu nhập đầu người tại các quốc gia này rất cao như ở Qatar là 62.000 USD/năm; UAE hơn 40.000 USD/năm nhưng theo thống kê, số lượng DN Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm Halal vào các nước Hồi giáo còn rất ít trong khi thị trường này thực sự tiềm năng”, bà Phương đánh giá.
Để tiếp cận và từng bước xuất khẩu được sản phẩm vào thị trường các quốc gia Trung Đông, bà Phương cho rằng, các DN phải xác định được sản phẩm tiềm năng và thị trường mục tiêu, ngoài các sản phẩm truyền thống cũng cần đầu tư cho các sản phẩm Halal.
“Khi tiếp cận thị trường Hồi giáo tại Trung Đông, các DN không nên quá xuất khẩu nhiều sản phẩm cùng lúc, chỉ nên làm chứng nhận và xuất khẩu 1 sản phẩm Halal để giảm chi phí cấp chứng nhận, vì chứng nhận này chỉ có thời hạn 1 năm. Khi DN đã xuất khẩu thành công 1 sản phẩm và quen với các quy trình thương mại, sau đó mới tiếp tục mở rộng thêm các dòng sản phẩm Halal khác để giảm thiểu rủi ro”, bà Phương khuyến nghị.
Những sản phẩm organic bắt đầu được đánh giá cao
Nêu một số lưu ý khi xuất khẩu sang thị trường Saudi Arabia, ông Trần Trọng Kim, Bí thư thứ nhất Phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Saudi Arabia cho biết, DN cần nghiên cứu thị trường, quy định sở tại về quản lý chất lượng và vệ sinh ATTP, chủ động gửi mẫu sản phẩm quảng bá, trưng bày tại thương vụ và Đại sứ quán Việt Nam.
Ông Kim cũng thông tin thêm, xu thế hiện nay Saudi Arabia đang hướng tới cuộc sống xanh, lành mạnh và phát triển môi trường bền vững. Những sản phẩm organic, thân thiện với môi trường bắt đầu được đánh giá cao và đang có nhu cầu trong thời gian tới. Do đó các DN cần nghiên cứu sản xuất theo hướng này để gia tăng giá trị xuất khẩu. Ngoài ra, các DN cần xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình bên cạnh việc bán hàng, đóng bao bì, in nhãn mác theo yêu cầu của nhà nhập khẩu…
“Đặc biệt, khi giao dịch với DN tại khu vực Trung Đông và châu Phi, các DN cần ký hợp đồng thanh toán theo hình thức thư tín dụng LC và có đặt cọc. DN tuyệt đối không trả trước khoản phí nào liên quan đến chi phí môi giới hợp đồng, phí phát hành hóa đơn,… vì đây là hành vi lừa đảo phổ biến.
Ngoài ra, lợi dụng chiến sự một số đối tượng lừa đảo tự xưng là người của các tổ chức nhân đạo, từ thiện đang cần nhập khẩu lượng lớn hàng hóa nhằm mục đích cứu trợm tái thiết,… để đưa ra các đơn hàng lớn, giá tốt để lừa gạt và chiếm đoạt hàng hóa. Khi có các đơn hàng kiểu như vậy, đề nghị các DN thận trọng và xác minh kỹ thông qua kênh Đại sứ quan và Thương vụ Việt Nam tại khu vực”, ông Kim lưu ý.
Những thách thức lớn của DN Việt Nam khi tiếp cận thị trường Trung Đông
Đánh giá cao tiềm năng của sản phẩm và thị trường khu vực Trung Đông, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng, những sản phẩm tiềm năng của Việt Nam có thể thâm nhập thị trường Trung Đông và châu Phi đầu tiên phải kể đến đó là gạo. Do người Hồi giáo họ ăn gạo theo tiêu chuẩn Halal, cho nên Việt Nam phải cố gắng sản xuất được gạo Việt Nam theo tiêu chuẩn Halal, đúng theo nguyên tắc kinh tế thị trường “bán những gì thị trường cần, không bán những gì mình có”.
Tuy nhiên, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng cũng chỉ ra những thách thức lớn của DN Việt Nam khi tiếp cận thị trường Trung Đông là hiểu thông tin thị trường chưa đầy đủ, chưa có những đối tác có đủ độ tin cậy cao, trong khi chi phí chứng nhận sản phẩm và chi phí vận tải rất lớn.
Ngoài ra, các DN vẫn chưa có sự đồng hành của Chính phủ, vì vậy cần phải có tầm nhìn mới và một cách nhìn nhận mới về sản phẩm và thị trường Trung Đông, từ đó mới trở thành động lực cho xuất khẩu Việt Nam để các DN chịu khó tìm cách khai thác thị trường này một cách hiệu quả và dài hạn.
“Vẫn có cách thức để DN tiếp cận thị trường này, từ việc phát huy vai trò của các cơ quan thương vụ, các chương trình xúc tiến thương mại của các DN đi khảo sát, nghiên cứu thị trường và cao hơn là cần xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với các nước Trung Đông và châu Phi”, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng nêu giải pháp./.