Quan điểm của Đảng về xây dựng phát triển văn hoá, con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Xây dựng, phát triển văn hóa, con người có vai trò vô cùng quan trọng đối với mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội vì nó góp phần kiến tạo nền tảng tinh thần cho đất nước, tạo động lực, nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, Đảng ta luôn chú trọng công tác xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay.

Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước hướng đến mục tiêu chung là: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Do vậy, xây dựng, phát triển văn hóa là nhắm hướng đến con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. Phát triển con người là quá trình tác động có chủ đích của các chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mỹ. Nên, xây dựng, phát triển con người là vấn đề trung tâm của xây dựng, phát triển văn hóa.

Thấy được tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa xây dựng, phát triển văn hóa, con người nên trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

Năm 1988, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, trong đó nhấn mạnh: Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa tiến bộ và nhân văn, dựa trên hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu không ngừng vì hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hóa vừa cập nhất với trình độ chung của nhân loại tiến bộ, vừa thể hiện sâu sắc bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Nền văn hóa này vừa đảm bảo được sự thống nhất của quốc gia - dân tộc, tạo nên sự đoàn kết dân tộc, vừa tôn trọng và phát huy sự đa dạng văn hóa của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là nền văn hóa thắm nhuần sâu sắc các giá trị nhân văn, dân chủ, tiến bộ, có sức lan tỏa và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần, sức mạnh “nội sinh” quan trọng để phát triển đất nước.

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. 

Tuy nhiên, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng . Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích . Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này, lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. 

Chính vì vậy, vấn đề phát triển văn hóa, con người được Đảng ta định hướng rất rõ trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, nhất là từ Đại hội lần thứ XI, XII, XIII của Đảng về tính định hướng chiến lược lâu dài về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới[1]”. Theo đó, phải phát triển con người Việt Nam toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế[2]... Để thực hiện thành công quan điểm phát triển văn hóa, con người trên, tại Đại hội XIII, Đảng ta yêu cầu phải “đề cao tính tiên phong gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong các đơn vị... khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế xã hội[3].

Những định hướng cơ bản trong đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sự phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam nói riêng và sự thành công của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Trong thời gian qua, các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã được cụ thể hóa trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước, ghi rõ trong Hiến pháp. Nhằm định hướng xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong tình hình mới, Đảng ta nêu rõ các quan điểm, mục tiêu và giải pháp thực hiện.

Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 

Đảng ta đưa ra quan điểm về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bao gồm:

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan điểm này được khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ yếu tố văn hóa so với kinh tế, chính trị, hạn chế được hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Quan điểm này thể hiện mô hình hài hòa giữa đặc trưng “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc”, thống nhất với tính chất của nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.

Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cơ bản, cốt lõi, trọng tâm của việc xây dựng nền văn hóa đó là xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người bởi lẽ. Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vì nếu không xác định rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động văn hóa vào hoàn thiện con người thì dẫn đến nguy cơ xa rời bản chất đích thực của văn hóa, là tha hóa con người. Con người là chủ thể sáng tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo ra nên nhân cách con người có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất lượng văn hóa. Vì thế, xây dựng nhân cách con người đứng vững trước những khó khăn, thách thức của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ trọng của văn hóa Việt Nam hiện nay.

Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Quan điểm này xác định trọng tâm của xây dựng môi trường văn hóa là xây dựng gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa.

Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này đã khẳng định các chủ thể trọng yếu có vai trò to lớn, là nguồn lực và động lực để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Nhìn một cách tổng quát, 5 quan điểm trên đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo vừa cơ bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp bách của Đảng ta nhằm định hướng cho quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Các quan điểm này đã phản ánh một bước phát triển mới về tư duy lý luận văn hóa của Đảng. Nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận thể hiện tập trung ở các quan điểm này sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn của chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn.

Xuất phát từ 5 quan điểm trên, Đảng đã đưa ra 6 nhiệm vụ rất cơ bản và bao quát một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và các hoạt động văn hóa liên quan đến văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Sáu nhiệm vụ đó là:

Thứ nhất, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về đạo đức, tâm hồn, thể chất đến trí tuệ, năng lực.

Thứ hai, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

Thứ ba, xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế.

Thứ tư, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa.

Thứ năm, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.

Thứ sáu, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.

Để thực hiện tốt 5 quan điểm, 6 nhiệm vụ trên, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tuyên truyền, quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về định hướng phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phức tạp trong tình hình mới. Đó là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước[4]”.

Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cả về mặt nhận thức và cách thức.

Về nhận thức, các cấp ủy, tổ chức đảng xác định xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ đổi mới. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu và động viên, tổ chức cho Nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người.

Về cách thức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng hài hòa, vừa bảo đảm để văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.

Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa thông qua việc thực hiện tốt yêu cầu của Nghị quyết 33-NQ/TW.

Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò quản lý nhà nước về văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về văn hóa, Nghị quyết số 33-NQ/TW nhấn mạnh các yêu cầu sau: Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, nghệ thuật, quyền tác giả và các quyền khác phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Tăng cường công tác thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra, tích cực tiếp thu và ứng dụng hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước về văn hóa, không ngừng đổi mới và nâng cao trình độ quản lý.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa nói riêng và người Việt Nam nói chung phát triển cả về đạo đức, phẩm chất, trình độ, năng lực.

Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực văn hóa đóng vai trò quan trọng, là động lực của sự phát triển đất nước nói chung, phát triển văn hóa nói riêng. Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI yêu cầu phải xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo sự chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy môn đào tạo. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức.

Trong giai đoạn hiện nay, cần đẩy mạnh xây dựng con người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong cuộc sống; giàu trí tuệ, phong phú về đời sống tinh thần, trong sáng về đạo đức, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tuân thủ pháp luật, chăm lo xây dựng cộng đồng; biết suy nghĩ độc lập, tự chịu trách nhiệm, có tinh thần hợp tác, làm việc có hiệu quả; có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, không ngại với khó khăn và gian khổ, có ý chí vươn lên, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Xây dựng gia đình và xã hội đoàn kết, hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc, kỷ cương, nền nếp, đời sống vật chất và tinh thần phong phú, lành mạnh; có tinh thần tương thân, tương ái, tự nguyện, tự quản, dân chủ, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Năm là, tăng cường các nguồn lực cho văn hóa về đầu tư của Nhà nước, về xã hội hóa, về quản lý, về thiết chế văn hóa, về nghiên cứu lý luận và đầu tư các nguồn lực phát triển con người toàn diện.

Để phát triển văn hóa, con người, Nhà nước cầu đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người ngang với đầu tư cho phát triển kinh tế. Bởi lẽ, chung quy mọi sự phát triển đều do con người, vì con người. Nếu giá trị văn hóa bị biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, con người bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Vì thế, Nhà nước cần đầu tư cả về tài lực, vật lực và có kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ để thực hiện mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay.

Mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh xã hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ trong xã hội. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, nhất là những vùng khó khăn. Xây dựng các công trình văn hóa trọng điểm. Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, con người.

Tóm lại, Xây dựng, phát triển văn hóa là hoạt động có chủ đích của các chủ thể văn hóa tác động vào môi trường tự nhiên và xã hội làm nảy sinh những giá trị mới của nền văn hóa theo hướng chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Từ hoạt động xây dựng, phát triển văn hóa con người được: Tham gia vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá, đánh giá và thưởng thức các giá trị văn hóa. Phát triển nhân cách, hình thành phẩm chất, năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, đời sống văn hóa xã hội thay đổi cả bề rộng và chiều sâu theo chiều hướng tích cực.

Xây dựng, phát triển con người là quá trình tác động có chủ đích của các chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con người phát triển toàn diện cả về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mĩ. Xây dựng, phát triển văn hóa, xét cho đến cùng là vì con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. Chính vì vậy, xây dựng, phát triển con người là vấn đề trung tâm của xây dựng, phát triển văn hóa.

Đảng ta khẳng định: Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế; xây dựng văn hóa trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đảng ta cũng đã xác định, chủ thể xây dựng và phát triển văn hóa là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng; nhấn mạnh đến phát huy tối đa các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, từ trong nước và nước ngoài để phát triển văn hóa.

Như vậy, Nghị quyết số 33, của Hội nghị TW 9 khóa XI “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước”, là một sự phát triển về tư duy chiến lược của Đảng ta trong xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới đã từng bước được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là đòi hỏi tất yếu của xu thế trong việc chú trọng nâng cao hệ giá trị con người, đất nước Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và cuộc các mạng công nghiệp 4.0 đang bùng nổ cũng như những thách thức đặt ra hiện nay.

Nguyễn Tuấn Anh