Sản xuất xi măng là một trong những ngành có nguồn phát thải CO2 lớn nhất
Thực hiện Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg Ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật), kể từ ngày 1/10 có 80 cơ sở sản xuất ximăng sẽ phải kiểm kê khí nhà kính và nộp báo cáo 2 năm một lần theo Nghị định số 06/NĐ-CP Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng Ozone.
Sản xuất xi măng là một trong những ngành có nguồn phát thải CO2 lớn nhất, do đó việc tìm kiếm giải pháp giảm phát thải rất quan trọng để có thể giảm đáng kể tác động đến môi trường và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Ông Vũ Ngọc Anh - Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và Môi trường (Bộ Xây dựng) - cho biết hiện nay, các doanh nghiệp xi măng đang phải đối mặt với nhiều áp lực trong việc thực hiện các cam kết của Việt Nam về biến đổi khí hậu và chuyển đổi năng lượng.
Để đáp ứng các mục tiêu yêu cầu, doanh nghiệp sản xuất xi măng cần tuân thủ quy định mới từ quốc gia và quốc tế, bao gồm việc sử dụng nhiên liệu thay thế, áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, cũng như cải tiến quy trình sản xuất nhằm giảm phát thải khí nhà kính.
Bộ Xây dựng đã chuẩn bị 2 dự thảo quan trọng gồm kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Xây dựng đến năm 2030, trong đó có lĩnh vực sản xuất xi măng; Thông tư hướng dẫn quy trình, quy định kỹ thuật kiểm kê khí nhà kính, đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính ngành xây dựng.
Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang phối hợp với các bộ, ngành để sửa đổi Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, nhằm hoàn thiện quy định về thẩm định khí nhà kính, tổ chức thị trường carbon và quản lý tín chỉ carbon, ông Ngọc Anh thông tin.
Ngành xi măng nỗ lực triển khai các giải pháp giảm phát thải thích ứng lộ trình phát triển
Theo TS Hoàng Hữu Tân - Phó Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), về quy mô và công nghệ, hiện nay ngành xi măng có 92 dây chuyền sản xuất clinker xi măng, công suất 122,34 triệu tấn xi măng/năm; về nguyên liệu, sử dụng trung bình 1.55 tấn nguyên liệu (đá vôi, đất sét, phụ gia)/tấn clinker; nhiệt năng tiêu tốn trung bình 800 kcal/kg clinker; điện năng 95 kWh/tấn xi măng. Đặc biệt, cả nước ta hiện đã lắp đặt 34 dây chuyền với công suất 248MW (tiết kiệm khoảng 20 - 30% lượng điện năng tiêu thụ)
Mục tiêu phát triển ngành xi măng giai đoạn 2021 - 2030, về đầu tư, nước ta chỉ đầu tư mới nhà máy sản xuất clinker đáp ứng được các tiêu chí gồm: xây dựng mới các nhà máy sản xuất clinker có công suất trên 5.000 tấn/ngày/dây chuyền, gắn với vùng nguyên liệu, đầu tư đồng thời hệ thống tận dụng nhiệt khí thải và các chỉ tiêu công nghệ môi trường khác.
Đến năm 2025, các dây chuyền clinker có công suất dưới 2.500 tấn/ngày sẽ phải đổi mới công nghệ; đầu tư trạm nghiền công suất phù hợp với vùng nguyên liệu; tăng tỷ lệ pha phụ gia.
Tiếp đó, cuối năm 2025, 100% dây chuyền clinker lớn hơn 2.500 tấn/ngày phải có hệ thống tận dụng nhiệt khí thải. Tận dụng nhiệt khí thải để phát điện với mục tiêu tiết kiệm được khoảng 20% - 30% tổng lượng điện tiêu thụ, giảm lượng phát thải bụi và khí CO2.
Từ 2031 - 2050, sẽ tập trung phát triển kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, sử dụng chất thải và rác thải làm nguyên liệu. Việc đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng sẽ được đẩy mạnh nhằm giảm lượng chất thải phải chôn lấp và cải thiện hiệu quả kinh tế. Đồng thời, các dây chuyền sản xuất hiện có sẽ được cải tiến để xử lý hầu hết các loại chất thải mà không phát sinh ô nhiễm, từ đó góp phần giảm phát thải ra môi trường.
Thêm nữa, Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg, có hiệu lực từ ngày 1/10/2024, 80 cơ sở sản xuất xi măng sẽ phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính và nộp báo cáo 2 năm một lần, theo Nghị định số 06/NĐ-CP, sản xuất xi măng, thép và nhiệt điện sẽ tham gia thí điểm phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính và thị trường carbon.
Bên cạnh đó, ngành xi măng cũng phải đối mặt với các quy định quốc tế, như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU, dự kiến sẽ áp dụng từ 2026, với mục tiêu hạn chế lượng khí thải carbon từ các sản phẩm nhập khẩu đã và đang tạo ra những tác động không nhỏ tới các DN xuất khẩu trên toàn cầu, trong đó có quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Cơ chế này không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để các DN Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện quy trình sản xuất, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và môi trường.
Xi măng cũng là lĩnh vực có tỷ trọng phát thải khí nhà kính lớn, chiếm gần 75% tổng phát thải của ngành sản xuất vật liệu xây dựng. Mục tiêu phát triển ngành xi măng giai đoạn 2021-2030 bao gồm việc chỉ đầu tư xây dựng mới các nhà máy sản xuất clinker có công suất trên 5.000 tấn/ngày, gắn với vùng nguyên liệu và hệ thống tận dụng nhiệt khí thải.
Với một ngành có tổng công suất thiết kế lên tới 122 triệu tấn xi măng/năm, trong đó, Tổng Công ty Xi măng Việt Nam (VICEM) chiếm khoảng 30 - 32% và là một trong những ngành có tỷ lệ phát thải lớn, chiếm gần 75% lượng phát thải của lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, được xem là mục tiêu chính trong nỗ lực giảm phát thải.
Để đạt được mục tiêu giảm phát thải, VICEM đã triển khai nhiều giải pháp như: quản lý và kiểm soát phát thải; tối ưu hóa sử dụng nhiên liệu; giảm tỷ lệ clinker trong sản xuất xi măng; tận dụng nhiệt thừa để phát điện và thu hồi CO2.
Tuy nhiên, ông Trường cho rằng mặc dù đã đạt nhiều tiến bộ nhưng VICEM hiện vẫn gặp khó khăn trong việc duy trì chất lượng sản phẩm và đầu tư cơ sở hạ tầng cho nguyên liệu thay thế. Hơn nữa, chính sách hỗ trợ từ Nhà nước còn thiếu cụ thể, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Giám đốc Phát triển bền vững SGS Việt Nam Tô Thanh Sơn nhìn nhận, CBAM được dự báo sẽ có tác động sâu rộng đến các DN xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực như xi măng, thép và nhôm. Nhiều DN Việt Nam vẫn còn chưa nhận thức rõ về CBAM, trong khi một số DN lớn đã bắt đầu nghiên cứu và chuẩn bị cho quy định này.
Để ứng phó, DN có hàng hóa thuộc danh mục chịu sự điều chỉnh của CBAM EU cần phải xác định được nguồn phát thải/kiểm kê/tính toán tổng lượng phát thải; xây dựng báo cáo đề cập đến lượng phát thải của từng dòng sản phẩm; xác định, đánh giá giảm thiểu lượng carbon trong từng công đoạn của quy trình sản xuất; xây dựng kế hoạch sản xuất, trong đó có dòng kinh phí cho việc xây dựng báo cáo phát thải theo yêu cầu của CBAM và trao đổi với nhà nhập khẩu để chuẩn bị các nội dung báo cáo theo yêu cầu./.