Tạo vị thế sản phẩm gỗ tại 160 quốc gia và vùng lãnh thổ
Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, trong năm 2024, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 16,25 tỷ USD, tăng 20,3% so với năm 2023. Trong đó, trị giá xuất khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 11,2 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2023.
Nếu so sánh với con số kỷ lục cũ được xác lập năm 2022 (15,8 tỷ USD), kim ngạch xuất khẩu gỗ năm 2024 đã vượt khoảng gần 500 triệu USD. Cùng với gỗ, lâm sản ngoài gỗ cũng đóng góp 1,04 tỷ USD trong năm 2024, giúp tổng giá trị xuất khẩu đạt khoảng 17,3 tỷ USD.
Thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy, Hoa Kỳ tiếp tục giữ vững vị trí số một về thị trường xuất khẩu mặt hàng gỗ và các sản phẩm gỗ, gấp khoảng 4 lần so với vị trí thứ nhì – Trung Quốc. Cùng với EU, 3 thị trường này có sức tăng trưởng lớn bậc nhất trong năm 2024 và dự kiến sẽ tiếp tục giữ vững xu thế, ít nhất là nửa đầu năm 2025.
Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam (VIFOREST) cho biết, hiện Việt Nam đã xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đến trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Với đà tăng trưởng hiện tại và sự nỗ lực của các doanh nghiệp cùng cơ quan quản lý, ngành gỗ Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu mới, củng cố vị thế trên thị trường quốc tế.
Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) đánh giá triển vọng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong năm 2025 được dự báo tích cực, với mục tiêu xuất khẩu đạt khoảng 18 tỷ USD.
Ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) nhận định, thời cơ và thách thức đối với ngành gỗ sẽ đan xen. Về thuận lợi, EU đã lùi thời gian áp dụng Luật Chống phá rừng (EUDR), thay vì áp dụng từ đầu năm 2025 thì thời điểm luật có hiệu lực sẽ là ngày 30/12/2025 đối với các công ty lớn và 30/6/2026 đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
"Năng lực cạnh tranh là yếu tố sống còn lúc này. Doanh nghiệp ngành gỗ phải đáp ứng các yêu cầu của thị trường nhập khẩu như sản xuất minh bạch, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, có mẫu mã đẹp và giá cả hợp lý", ông Lập nói và mong muốn các cơ quan quản lý tiếp tục đồng hành cùng ngành gỗ trong việc cung cấp các thông tin về chính sách, các biện pháp phòng vệ thương mại để xuất khẩu bền vững hơn.
Bắt nhịp xu hướng xanh từ rừng trồng tới nhà máy
Mặc dù, đạt được kết quả khả quan, nhưng ngành gỗ vẫn đối mặt với nhiều thách thức như yêu cầu kiểm soát nguồn gốc gỗ hợp pháp từ các thị trường xuất khẩu chính, nguy cơ gian lận thương mại, áp lực cạnh tranh và biến động kinh tế toàn cầu.
Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch Viforest, cho rằng dần dần, tất cả các thị trường nhập khẩu đồ gỗ sẽ siết chặt các điều kiện liên quan đến yếu tố xanh; xanh từ sản xuất đến thương mại xanh, tăng trưởng xanh… Vì vậy, ngành chế biến gỗ xuất khẩu buộc phải đáp ứng yêu cầu truy xuất đến tận người trồng rừng. "Đây không còn là đòi hỏi mang tính tự nguyện, mà đã trở thành điều kiện bắt buộc nếu muốn bán hàng cho đối tác”, ông Hoài nói.
Trong Đề án Phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ bền vững, hiệu quả giai đoạn 2021 - 2030, Việt Nam đặt mục tiêu giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản đạt 20 tỷ USD vào năm 2025. Đồng thời, trên 80% cơ sở chế biến, bảo quản gỗ đạt trình độ và năng lực công nghệ sản xuất tiên tiến; 100% gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước được sử dụng từ nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Để thích ứng, nhiều doanh nghiệp gỗ cũng đã và đang lấy sản xuất xanh làm chiến lược và lợi thế cạnh tranh. Theo đó, các doanh nghiệp liên tục đổi mới, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình theo chiều sâu, gắn với phát triển bền vững, thân thiện với môi trường.
Nhận định về tình hình những năm tới, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cho rằng, yếu tố xanh sẽ là một trong những tác động lớn đến xu hướng xuất khẩu gỗ của Việt Nam trong dài hạn, khi mà nhiều quy định của các thị trường đang được triển khai, thực thi như quy định chống phá rừng (EUDR) hay Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của châu Âu.
Theo ông Trần Quang Bảo, bên cạnh việc xây dựng các khu chế biến công nghệ cao, mở rộng thị phần xuất khẩu, chủ động xúc tiến thương mại gỗ và sản phẩm gỗ tại các thị trường chính, phát triển bán hàng qua các kênh thương mại điện tử, ngành gỗ cần quan tâm hơn và đầu tư vào vùng nguyên liệu. Cụ thể, là phát triển nhiều hơn những rừng trồng gỗ lớn, rừng được quản lý bền vững và cấp chứng chỉ (FSC hoặc PEFC).
Hiện Cục Lâm nghiệp đã phối hợp các đơn vị thực hiện thí điểm việc cấp mã số vùng trồng rừng tại một số tỉnh phía Bắc, tiến tới mở rộng ra toàn quốc. Nhiệm vụ của mã số này là phát triển chuỗi cung gỗ hợp pháp, đảm bảo truy xuất nguồn gốc gỗ thích ứng với các yêu cầu quốc tế, cũng như phát triển phương pháp đo đếm, báo cáo và thẩm định (MRV) để xác định khả năng hấp thụ, lưu trữ carbon rừng trồng.
“Tiêu chuẩn rừng trồng của Việt Nam càng cao, gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ càng dễ thâm nhập vào những thị trường khó tính”, ông Bảo nhấn mạnh.
Theo TS Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Rừng Việt Nam (VFCO), Việt Nam là một trong các quốc gia hàng đầu về chế biến gỗ và lâm sản, các chính sách đang hướng đến một nền lâm nghiệp bền vững, đáp ứng các yêu cầu của thị trường, trong đó có vấn đề tài chính xanh và thị trường carbon. Đây là những cơ chế tài chính đóng góp vào công cuộc giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu và giải quyết các thách thức môi trường trong bối cảnh hiện nay.
"Các định hướng chính sách lớn về phát triển lâm nghiệp đến năm 2030 là đạt mục tiêu 1 triệu ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững; 100% gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước được sử dụng từ nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững và 100% diện tích rừng của tổ chức thực hành quản lý rừng bền vững", TS Vũ Tấn Phương cho hay./.