
Các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam không chỉ là “vành đai xanh” quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái, mà còn là nơi bảo đảm nguồn sống cho cộng đồng cư trú quanh vùng đệm. Tuy vậy, bên cạnh những mô hình thành công, việc gắn kết giữa bảo tồn và phát triển sinh kế ở một số khu vực vẫn còn thiếu sự đồng bộ, do chính sách quản lý dựa vào cộng đồng chưa thật sự ổn định và lâu dài.
Nhìn từ thực tế ở Ba Vì, có thể thấy khi vùng đệm được đặt đúng vị trí trong chiến lược bảo tồn, hiệu quả sẽ nhanh chóng lan tỏa. Ngay từ khi thành lập, Vườn quốc gia Ba Vì đã coi phát triển kinh tế vùng đệm là nhiệm vụ song song với bảo vệ tài nguyên rừng. Mô hình trồng dược liệu và nuôi ong dưới tán rừng được đẩy mạnh, giúp người dân có nguồn thu đáng kể mà không tác động tiêu cực đến hệ sinh thái. Phó Giám đốc Vườn quốc gia Ba Vì Đỗ Thanh Hùng cho biết những mô hình này không chỉ tạo thu nhập ổn định cho người dân mà còn thúc đẩy quá trình thụ phấn tự nhiên, gia tăng mật độ cây bản địa và góp phần giữ gìn đa dạng sinh học.
Tại Vườn quốc gia Xuân Thủy, nơi có hơn 1.100ha rừng ngập mặn cùng 8.000ha vùng đệm, mối quan hệ giữa bảo tồn và sinh kế thể hiện rõ rệt hơn cả. Hệ sinh thái rừng ngập mặn tại đây đóng vai trò cố định phù sa, lưu giữ các-bon và bảo vệ khu vực ven biển trước thiên tai. Tuy nhiên, nhu cầu mưu sinh khiến nguồn thủy sản từng chịu sức ép khai thác lớn. Trước thực trạng đó, Ban quản lý vườn phối hợp chính quyền các cấp xây dựng mô hình khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản dưới tán rừng, từng bước đưa người dân tham gia vào quản lý tài nguyên. Phó Giám đốc Phạm Vũ Ánh nhấn mạnh rằng việc bảo vệ hệ sinh thái gắn liền với duy trì sinh kế lâu dài, trong đó cộng đồng vừa là đối tượng thụ hưởng vừa là lực lượng giám sát.
Cũng tại Xuân Thủy, hướng đi mới bằng phát triển du lịch sinh thái trong giai đoạn 2024 - 2025 đã mở thêm cánh cửa kinh tế cho vùng đệm. Ba sản phẩm du lịch đặc trưng dựa trên cảnh quan rừng, đa dạng sinh học và văn hóa bản địa đã thu hút trung bình 20.000 - 25.000 lượt khách mỗi năm. Việc khai thác du lịch bài bản giúp giảm áp lực lên nguồn thủy sản, đồng thời tạo thêm nguồn lực để cộng đồng địa phương chủ động hơn trong hoạt động bảo tồn.
Ở cấp độ toàn quốc, Việt Nam hiện sở hữu hơn 2,37 triệu ha rừng thuộc hệ thống 34 vườn quốc gia và hàng trăm khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài, sinh cảnh. Vùng đệm của các khu vực này là nơi sinh sống của hàng triệu người, đồng thời cũng là khu vực dễ bị tổn thương trước áp lực sinh kế.
Theo Phó Trưởng phòng Khuyến nông, Trồng trọt và Lâm nghiệp Nguyễn Huy Thuấn, dù còn tồn tại tình trạng khai thác lâm sản ngoài gỗ, săn bắt hay chăn thả gia súc trong rừng, nhiều mô hình sinh kế xanh đã chứng minh được tính hiệu quả khi giúp tăng thu nhập 1,5 - 3 lần cho người dân và giảm đáng kể mức độ xâm hại tài nguyên tự nhiên.
Một trong những giải pháp nổi bật là mô hình tôm sinh thái - rừng ngập mặn ở Xuân Thủy được triển khai sau năm 2010. Với quy mô khoảng 1.000ha tại các vùng cửa sông và ven biển, mô hình này giữ lại được hầu hết diện tích rừng ngập mặn, cải thiện chất lượng nước, giảm áp lực khai thác và duy trì đa dạng sinh học. Phó Giám đốc Phạm Vũ Ánh nhận định dù năng suất thấp hơn nuôi công nghiệp, mô hình lại mang tính bền vững cao, hạn chế rủi ro và giúp cộng đồng gắn bó hơn với rừng.
Theo Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia Hoàng Văn Hồng, để củng cố mối liên kết giữa bảo tồn và sinh kế trong tương lai, Việt Nam cần hoàn thiện cơ chế đồng quản lý, thúc đẩy chia sẻ lợi ích, khuyến khích đầu tư vào sinh kế xanh và kinh tế tuần hoàn.
Việc nhân rộng các mô hình sinh kế dựa trên hệ sinh thái, tăng cường hợp tác giữa vườn quốc gia với doanh nghiệp và tổ chức xã hội sẽ giúp xây dựng thương hiệu cho sản phẩm vùng đệm, đồng thời tạo chuỗi giá trị bền vững. Hỗ trợ tài chính - kỹ thuật cho các hộ nghèo và nhóm dễ tổn thương, cùng việc phát triển mô hình nông - lâm kết hợp phù hợp từng địa phương, được xem là chìa khóa giảm sức ép khai thác và giữ vững mục tiêu bảo vệ rừng.