Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Pù Hoạt có 73km đường biên giới giáp với nước bạn Lào, thuộc địa giới hành chính của 04 xã gồm: Tri Lễ, Nậm Giải, Hạnh Dịch và Thông Thụ của huyện Quế Phong (Nghệ An) với tổng diện tích rừng được giao quản lý là 29.389 ha (gồm 17 tiểu khu), giáp ranh với các huyện Sầm Tớ và Mường Quắn, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào.
Diện tích rừng bên phía Việt Nam phân bố xa các thôn bản, địa hình đi lại rất khó khăn, phức tạp; đối diện bên kia biên giới phía nước bạn Lào dân cư sinh sống chủ yếu là người H’mông. Có nhiều nơi các bản người H’mông của Lào định cư rất gần với Khu BTTN Pù Hoạt. Địa hình phía bên Lào khá bằng phẳng, có tuyến đường tuần tra dọc biên giới cách đường phân giới 01km, rất thuận lợi cho các hoạt động khai thác, vận chuyển lâm sản và săn bắt động vật hoang dã.
Diện tích rừng của Khu BTTN Pù Hoạt phân bố dọc với biên giới Việt Nam - Lào chủ yếu là rừng nguyên sinh có trữ lượng lớn với các loài cây có giá trị kinh tế cao, đặc biệt có 2 loài cây gỗ quý hiếm là Pơ mu và Sa mu dầu phân bố từ độ cao 1.000m trở lên, trong đó có quần thể 56 cây Sa mu dầu được Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận Cây di sản Việt Nam cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Ngoài ra, tài nguyên động vật rừng cũng rất phong phú như các loài khỉ, vượn, lợn rừng, mang...
Khu BTTN Pù Hoạt dọc tuyến biên giới giàu tài nguyên gỗ và động vật rừng nhưng phân bố ở các khu vực xa dân cư, hẻo lánh và địa hình hiểm trở. Việc tổ chức tuần tra, kiểm tra rừng thường xuyên gặp rất nhiều khó khăn. Phía bên kia biên giới của nước bạn Lào, chủ yếu là đất trống, đồi núi trọc đã bị người dân sử dụng canh tác nương, rẫy lâu năm. Hiện nay, nhiều khu vực người dân Lào canh tác nương, rẫy chỉ cách biên giới Việt - Lào và rừng do BQL Khu BTTN Pù Hoạt quản lý khoảng 500m - 1km.
Địa hình tương đối bằng phẳng và đặc biệt có tuyến đường tuần tra biên giới của Lào chạy dọc theo khu vực phân bố rừng của Khu BTTN Pù Hoạt rất thuận lợi cho các phương tiện vận chuyển lâm sản ra khỏi rừng. Việc tổ chức thực hiện các biện pháp tuyên truyền và ngăn chặn đối với công dân nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn như khó tiếp cận, bất đồng ngôn ngữ và quy định qua vùng biên giới.
Bên cạnh đó, thời tiết giữa Việt Nam và Lào thường có sự đối lập giữa mùa khô và mùa mưa. Trong thời gian phía bên nước bạn Lào đang là mùa khô và thuận lợi cho việc khai thác, vận chuyển lâm sản thì ở Việt Nam đang là mùa mưa, rất khó khăn, bất lợi cho việc triển khai thực hiện các hoạt động tuần tra, kiểm tra rừng, đặc biệt các khu vực dọc tuyến biên giới ở những khu vực có địa hình núi cao, dốc, khe suối hiểm trở.
Ông Nguyễn Văn Sinh, Giám đốc Ban Quản lý Khu BTTN Pù Hoạt cho biết, trước những thực trạng, khó khăn và thách thưc đặt ra đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy (PCCC) rừng khu vực vùng biên, BQL Khu BTTN Pù Hoạt đã chủ động tham mưu cho Huyện uỷ, UBND huyện Quế Phong đưa nội dung về tình hình an ninh rừng khu vực biên giới thành nội dung trong chương trình làm việc thường niên giữa huyện Quế Phong với huyện Sầm Tớ, Mường Quắn nước bạn Lào.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng trên địa bàn để tổ chức tuần tra, kiểm tra, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm liên quan đến diện tích rừng dọc biên giới. Đặc biệt là phối hợp chặt chẽ với các Đồn Biên phòng để thực hiện bảo vệ rừng khu vực biên giới gắn với đảm bảo tình hình an ninh biên giới.
Tăng cường tuyên truyền cho người dân các thôn bản trong khu vực biên giới để nâng cáo ý thức bảo vệ rừng, PCCC rừng, đồng thời cung cấp thông tin cho lực lượng Kiểm lâm Pù Hoạt, lực lượng Biên phòng và các cơ quan chức năng trên địa bàn về các khu vực, thời điểm có người dân Lào có tác động đến diện tích rừng dọc biên giới.
Phối hợp với các lực lượng chức năng trên địa bàn, đặc biệt là các Đồn Biên phòng và cộng đồng các thôn bản nhận khoán bảo vệ rừng để tổ chức lập chốt canh gác, tăng cường tuần tra, kiểm tra các khu vực trọng yếu.
Nhờ triển khai thực hiện đầy đủ, đồng bộ các giải pháp quản lý bảo vệ rừng và phòng chống cháy rừng ở khu vực biên giới, đến nay, tình hình an ninh rừng ở khu vực vùng biên cơ bản đã được kiểm soát tốt, dần đi vào ổn định; các hoạt động khai thác, vận chuyển lâm sản trong vùng giáp biên đã được phát hiện và xử lý kịp thời. Trên các khu vực vùng biên không còn xuất hiện các điểm nóng về khai thác, vận chuyển lâm sản và săn bắt động vật hoang dã; ý thức trách nhiệm của người dân, của chính quyền địa phương từng bước được nâng cao, tạo được động lực trong việc tham gia bảo vệ rừng ở khu vực vùng biên.
Những kết quả đạt được trong công tác quản lý bảo vệ rừng ở khu vực vùng biên đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định Quốc phòng - An ninh trên địa bàn./.