Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) bao gồm các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan và 2 tỉnh Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc). Đây là khu vực kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng phát triển, tài nguyên khoáng sản phong phú. Bên cạnh đó, sông Mekong với chiều dài hơn 4.800km đóng vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hơn 65 triệu người dân quanh lưu vực.
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 8/ 2022, Việt Nam đã đầu tư vào 4 nước Tiểu vùng Mekong gồm Lào, Campuchia, Myanmar và Thái Lan 549 dự án (còn hiệu lực) với tổng vốn đăng ký 8,53 tỷ USD, chiếm tới 87% tổng vốn đầu tư của Việt Nam vào các nước ASEAN. Trong số đó, có 237 dự án đầu tư vào Lào với tổng vốn đăng ký gần 4 tỷ USD, 197 dự án vào Campuchia với tổng vốn đăng ký 3,2 tỷ USD, 109 dự án vào Myanmar với vốn đăng ký gần 1,3 tỷ USD, 16 dự án vào Thái Lan với vốn đăng ký 29 triệu USD.
Việt Nam đang duy trì vị trí dẫn đầu ASEAN và là 1 trong 5 năm quốc gia đầu tư trực tiếp lớn nhất vào Campuchia. Việt Nam cũng đang là nước đứng thứ 3 về đầu tư trực tiếp vào Lào sau Trung Quốc và Thái Lan. Đầu tư của Việt Nam vào các nước Tiểu vùng Mekong tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực: khai khoáng; nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo; tài chính ngân hàng và bảo hiểm; bất động sản; bán buôn và bán lẻ…
Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng đã thu hút đầu tư từ các nước thuộc Tiểu vùng Mekong. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến tháng 9/2022, 4 nước Tiểu vùng Mekong đã đầu tư vào Việt Nam 707 dự án với tổng đầu tư 13,23 tỷ USD. Trong đó, Thái Lan là nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với 668 dự án có tổng vốn đăng ký 13,1 tỷ USD; đầu tư trực tiếp của Lào, Campuchia và Myanmar vào Việt Nam chưa đáng kể (Lào có 10 dự án với tổng vốn đăng ký 71 triệu USD, Campuchia có 27 dự án với tổng vốn đăng ký 69 triệu USD; Myanmar có 2 dự án nhỏ với tổng vốn đăng ký 0,8 triệu USD).
Đầu tư của các nước Tiểu vùng Mekong vào Việt Nam tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như: Công nghiệp chế biến, chế tạo; sản xuất phân phối điện, khí, nước; kinh doanh bất động sản; bán buôn và bán lẻ; nông lâm nghiệp và thủy sản; dịch vụ lưu trú và ăn uống…
Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Anh Tuấn - Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) đánh giá, đầu tư trực tiếp nội bộ giữa các nước Tiểu vùng Mekong còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Mặc dù dòng vốn FDI toàn cầu đã có xu hướng phục hồi từ năm 2021, song bên cạnh một số yếu tố thuận lợi, đầu tư trực tiếp nội bộ giữa các nước Tiểu vùng Mekong đang đứng trước những khó khăn thách thức lớn.
TS. Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, để gia tăng quy mô và tốc độ di chuyển FDI nội bộ Tiểu vùng Mekong, chính phủ và doanh nghiệp các nước cần coi trọng 5 giải pháp chính yếu. Thứ nhất, các nước Tiểu vùng Mekong cần nhận thức đầy đủ hơn về vai trò FDI đối với việc thúc đẩy hợp tác kinh tế Tiểu vùng, qua đó tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi và có chính sách hỗ trợ đầu tư lẫn nhau giữa các nước trong khu vực; thúc đẩy và đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào việc xây dựng cộng đồng ASEAN đầy đủ năm 2025.
Thứ hai, nâng cao khả năng chống chọi của nền kinh tế các nước trong khu vực trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, khắc phục tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng và thiếu hụt lao động chất lượng cao hiện đang diễn ra tại một số nước.
Thứ ba, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, nhất là môi trường pháp lý, minh bạch và đơn giản hóa thủ tục đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.
Thứ tư, tranh thủ sự hỗ trợ của các nước và tổ chức quốc tế trong việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là kết nối giao thông nội vùng, đảm bảo an ninh năng lượng gắn với chuyển đổi sang năng lượng sạch, hỗ trợ tăng cường năng lực cho tăng trưởng xanh, áp dụng kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, chống biến đổi khí hậu,…
Thứ năm, tăng cường trao đổi, cập nhật thông tin về chính sách thu hút đầu tư, tiềm năng và cơ hội đầu tư của các nước trong Tiểu vùng, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước tiếp cận thông tin và có sự hướng dẫn cần thiết về hợp tác đầu tư trong khu vực.
Bên cạnh đó, TS. Tuấn nhấn mạnh, VAFIE với chức năng và trách nhiệm của mình đã đang và sẽ đóng góp tích cực vào công tác hoàn thiện luật pháp chính sách đầu tư của Nhà nước Việt Nam, xúc tiến - kết nối đầu tư, hỗ trợ và bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư, cũng như cập nhật, cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư.