Xuất khẩu phân bón Việt Nam ghi nhận những con số tích cực

Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và cuộc chiến Ukraine – Nga, giá phân bón vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Đây chính là cơ hội để các doanh nghiệp sản xuất phân bón của Việt Nam tăng số lượng xuất khẩu cũng như giá thành.

Theo thống kê, 8 tháng đầu năm Việt Nam đã xuất khẩu được 1,23 triệu tấn phân bón các loại, đem về 791,97 triệu USD, giá trung bình đạt 644,9 USD/tấn. Như vậy so với cùng kì năm ngoái, xuất khẩu phân bón tăng 41,4% về khối lượng, tăng 167,9% về kim ngạch và tăng 89,4% về giá.

Riêng tháng 8/2022, cả nước xuất khẩu 117.973 tấn phân bón các loại, đạt 70,57 triệu USD, giá 598,2 USD/tấn, tăng 4,7% về khối lượng, nhưng giảm 6% kim ngạch và giảm 10,3% về giá so với tháng 7/2022; So với tháng 8/2021 thì tăng mạnh cả lượng, kim ngạch và giá, với mức tăng tương ứng 41,5%, 117,5% và 53,7%.

phan-bon-xuat-khau-tang-hoat-dong-hieu-qua-on-dinh-1664357762.jpg
Công nhân đang huyển phân bón lên tàu.

Thị trường xuất khẩu chính của phân bón Việt Nam vẫn là Campuchia. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, thị trường Campuchia chiếm 27,5% trong tổng khối lượng và chiếm 22,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước với 337.478 tấn, tương đương 180,4 triệu USD, giá trung bình 534,6 USD/tấn, giảm 7,8% về lượng, nhưng tăng 34,9% kim ngạch và tăng 46,2% về giá so với cùng kỳ năm 2021.

Riêng tháng 8/2022 xuất khẩu sang thị trường này tăng 22,8% về khối lượng, tăng 44,7% về kim ngạch và tăng 17,8% về giá so với tháng 7/2022, đạt 39.735 tấn, tương đương 20,1 triệu USD.

Thứ hai, thị trường Hàn Quốc đạt 84.493 tấn, tương đương 63,17 triệu USD, giá trung bình 747,6 USD/tấn, tăng mạnh 427% về lượng, tăng 1.385% kim ngạch và 181,8% về giá, chiếm trên 7% trong tổng khối lượng và chiếm 8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước.

Thứ ba, thị trường Malaysia đạt 105.677 tấn, tương đương 54,8 triệu USD, giá trung bình 518,6 USD/tấn, tăng 59,3% về lượng và tăng 287,7% kim ngạch, giá tăng 143,3%, chiếm 8,6% trong tổng khối lượng và chiếm 6,9% trong tổng kim ngạch.

Thứ tư, thị trường Philippines đạt 62.877 tấn, tương đương 48,97 triệu USD, giá trung bình 778,9 USD/tấn, tăng mạnh 92% về lượng, tăng 328,5% kim ngạch, giá tăng 123%, chiếm trên 5% trong tổng khối lượng và chiếm 6% trong tổng kim ngạch.

Thi Nguyên (t/h)