Với ngót 200 cây số dốc đèo, là bao nhiêu công sức mồ hôi, nước mắt và không ít người đã nằm lại vĩnh viễn nơi địa đầu tổ quốc, bởi vậy con đường thực sự là khúc bi tráng đã đem lại nhiều đổi thay, phát triển đi lên cho vùng đất. Con đèo quá hiểm trở nên đồng bào địa phương còn gọi là đèo sống mũi ngựa, hoặc đèo ngựa trụy thai... Con đèo dài 21 km, chạy qua ba xã: Tà Lủng, Pải Lủng, Pả Vi.
Trước khi Cao nguyên Đá Đồng Văn được công nhận Công viên Địa chất Toàn cầu, Tổng cục Du lịch Việt Nam thừa nhận, chỉ 24 cây số đường đèo từ Đồng Văn sang Mèo Vạc, là con đường mở trên đỉnh núi đẹp nhất Việt Nam.
Con đường Hạnh Phúc hôm nay thênh thang rộng mở, nhiều khúc cua đã được nắn lại, có thành lan can bằng thép vững chắc bên ta luy âm để bảo vệ an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông... Ngồi trên chiếc xe du lịch, tôi mỏi mắt ngắm nhìn không chán, những ngôi nhà dân tường trình đất nện, mái ngói âm dương sẫm màu, tường đá bao quanh rêu phong, trước sân, sau vườn hoa đào, hoa lê nở tràn rực rỡ, thung lũng Pả Vi đẹp như một lẵng hoa ngũ sắc, khách du lịch quốc tế, trong nước thong dong ngắm cảnh, chụp hình làm kỷ niệm, rồi họ vào chợ thưởng thức đặc sản: ăn thắng cố ngựa, uống rượu Há Ía một đặc sản của Mèo Vạc không nơi nào có được...
Người dân Mèo Vạc đã khấm khá lên từ nuôi bò hàng hóa, làm du lịch cộng đồng, mật ong bạc hà cũng đã có thương hiệu...Tôi nhìn ra xa, núi đồi, rừng cây, nương vườn, hoa lá tươi non đang vươn lên mãnh liệt trên vùng đất nắng gió, mù sương.
Đi trên con đường đẹp như mơ, mà lợi ích kinh tế, xã hội của nó đen lại cho đồng bào vùng cao là không thể đong đếm được... Xin được nhắc lại vài thông số vô cùng ý nghĩa để bạn đọc hình dung về sự ra đời của con đường như thế nào. Với ngót 200 cây số đường Hạnh Phúc thì chúng ta đi trên 66 cây số đá xanh, 59 cây số đá sít, 29 cây số đất, chưa kể cầu cống. Nghĩa là phải đào phá, san lấp 60 vạn thước đá, 2 triệu mét khối đất, 25 tấn mìn, 2 triệu ngày công ròng rã 6 năm trời không hề ngưng nghỉ.
Chỉ duy nhất một máy khoan đá, không có xe vận tải... Ở Lũng Táo, Sà Phìn, Lũng Hòa là nơi hiểm trở, nhiều đá nhất. Riêng 40 mét ở Lũng Hòa, một đại đội thanh niên của tỉnh Cao Bằng làm trong 3 tháng, bạt đi 3 vạn rưỡi khối đá... Đoạn Mã Pì Lèng 22 cây số dốc thẳng đứng 90 độ, toàn đá gan trâu, đá mặt quỷ, đục lỗ nổ mìn chùn chòong, gẫy chòong, chòong hóc trong lỗ đá. Công nhân phải treo mình vào vách núi phá đá, đốt mìn. Mỗi cây số đường ở đây mất từ 14.000 đến 19.000 công, có cây số tốn 33.000 công, phải qua hơn 20 mùa trăng tròn thì đoạn đường mới xong... Mỗi sớm đội cảm tử ra quân, đơn vị lặng lẽ làm lễ truy điệu sống, bởi vì lao động nổ mìn, phá đá treo mình vào vách ta luy rất hiểm nguy, có khi đứt dây bảo hiểm hoặc lở đá, trượt chân... và sự hy sinh là không tránh khỏi.
Nhớ lại đầu thế kỷ XX người Pháp qua đây họ phải ngả mũ vái chào và thốt lên: Đây đúng là một tượng đài địa chất! Khi tuyến đường hoàn thành, tổng kết lại mới thấy sự phi thường của tuổi trẻ với khát vọng, tất cả vì biên cương tổ quốc. Tham gia làm đường Hạnh Phúc có 1.039 thanh niên nam nữ của 6 tỉnh: Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà, thanh niên Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương, cùng với hàng vạn dân công tại chỗ cùng tham gia...
Điểm nhấn của Mã Pí Lèng hôm nay là nhóm tượng đài, dựng lên ở điểm cao nhất của con đèo, bề thế và xứng tầm. Nhóm tượng cao 16 mét, được điêu khắc từ chất liệu đá xanh tỉnh Thanh Hóa. Hệ thống móng tượng, móng dầm sàn, chiếu nghỉ 3 lớp, thang lên xuống bắng xi măng cốt thép, ốp đá xẻ, được bố trí hợp lý, hài hòa phù hợp tổng thể cảnh quan xung quanh.
Nhà bia thiết kế theo kiểu kiến trúc truyền thống hai tầng, 8 mái lợp ngói mũi hài, ngoài ra còn có hệ thống đèn chiếu sáng, chống sét, hệ thống tiêu thoát nước... tôi thấy có nhiều bạn trẻ, khách du lịch, thành kính dâng hoa, thắp hương tưởng nhớ một thế hệ thanh niên giàu lý tưởng, ý chí, không quản hy sinh, gian khổ, để con đường đúng nghĩa là con đường Hạnh Phúc huyền thoại mang lại ấm no, hạnh phúc cho đồng bào vùng cao...
Lúc này tôi chạnh nhớ đến mấy chục ngôi mộ của những thanh niên xung phong mở đường Hạnh Phúc yên nghỉ vĩnh viễn ở nghĩa trang Huyện Yên Minh. Các anh, các chị vẫn nằm đây trên Cao nguyên đá cực bắc Tổ quốc, dẫu hơn nửa thế kỷ đã đi qua, nhắc nhở về một thời gian nan chẳng dễ gì quên được. Sự hy sinh của các anh, các chị đã làm nên tầm vóc con đường - huyết mạch khổng lồ của quê hương vươn tới tương lai...
Có người bảo với tôi, lên Mèo Vạc mà chưa khám phá trải nghiêm vực hẻm Tù Sán - danh thắng kỳ vĩ có một không hai, là hẻm vực sâu nhất Đông nam Á, đi thuyền trên sông Nho Quế, nghe hát dân ca Mông thì coi như chưa đến Mèo Vạc...
Thật vậy, trên Mã Pì Lèng ở độ cao 1.200 mét - 1.400 mét thả mắt ngắm nhìn dòng sông Nho Quế phía xa kia, giữa trùng điệp núi non mới thật “mãn nhãn“, chẳng thế mà bao nhiêu Nghệ sỹ Nhiếp ảnh mọi miền đất nước, không quản ngại đường đất xa xôi với hy vọng chụp được một tác phẩm ảnh nghệ thuật để đời. Chếch lên phía bắc có một khối núi khổng lồ vỡ đôi, dòng Nho Quế ì ầm, ghềnh thác chảy qua như bất chấp không gian, thời gian...
Từ khi sông Nho Quế bị chặn dòng làm thủy điện, Mèo Vạc đã nhanh chóng có sản phẩm du lịch mới: Đi thuyền trên sông nước, du khách có khoảnh khắc đắm mình vào không gian trời mây bao la, ngắm núi non hùng vĩ trong mây bay huyền ảo, núi đổ bóng xuống dòng Nho Quế xanh mát, lau lách đôi bờ trắng bạc phất phơ trong gió, ngước nhìn lên Mã Pì Lèng, phóng tầm mắt về Thượng Phùng, Sơn Vĩ, mới cảm hết được vẻ đẹp hoang sơ mê đắm của Mèo Vạc, vùng quê 3/ 4 đá...
Nếu đi ô tô theo hướng về Mèo Vạc, cách đỉnh Mã Pì Lèng hơn chục cây số, đi bộ tiếp mất 30 phút nũa, gặp con đường mòn xuống bến thuyền Tà Làng, hoa dại, hoa tam giác mạch, hoa cải... nở tràn hai bên đường, hương thơm trong gió ngào ngạt, du khách có dịp trải nghiệm 49 khúc cua gấp khúc rất ngoạn mục trên con đường mòn xuống bến nước...
Nếu ngồi trên du thuyền xuất phát từ bến Tà Làng, ngược phía thượng nguồn, hoặc xuôi dòng về hạ du cầu Tràng Hương, con thuyền bồng bềnh có cảm giác rất lạ và thú vị như thể con người đang đi vào thế giới siêu thực... dẫu trải nghiệm một lần nhưng ấn tượng thật khó quên, muốn được tan hòa vào thiên nhiên kỳ thú ở nơi xa xăm, cách trở mà thật gần gũi, ấm áp tình người.
Đêm Mèo Vạc tĩnh lặng, mặc dù trời đã vào khuya nhưng tôi không tài nào ngủ được. Tôi mở cửa sổ phòng khách, làng Văn hóa cộng đồng Pả Vi vẫn nhộn nhịp người qua lại, ngôi sao xanh trên đỉnh núi Chí Sán nhấp nháy như đang tâm tình cùng tôi: Đỉnh Chí Sán bên trời lặng lẽ/Bát rượu đêm như lửa trong lòng/ Mai tôi xa dễ gì quên Mèo Vạc/Có một người phương ấy vẫn chờ mong..../.