"Vàng xanh” dưới tán rừng - Khi chính sách chưa kịp đồng hành

Cây dược liệu được đánh giá ‘vàng xanh” dưới tán rừng. Trồng dược liệu dưới tán rừng mang laiju rất nhiều lợi ích, không chỉ góp phần bảo vệ rừng, góp phần bảo tồn cây thuốc quý mà còn mở ra hướng phát triển sinh kế mới cho người dân. Nhưng nếu thiếu đi chính sách riêng thì mô hình dược liệu dưới tán rừng rất dễ đi chệch hướng.
quephong-1757257844.jpg
Ảnh minh hoạ.

Kho báu dược liệu dưới tán rừng

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Việt Nam có nguồn tài nguyên dược liệu phong phú và đa dạng, có nhiều nguồn gen được sử dụng làm thuốc phòng và chữa bệnh. Trong đó, có nhiều loài dược liệu quý về công dụng chữa bệnh và có giá trị kinh tế cao như: Sâm Việt Nam, Tam thất, Đảng sâm…

Theo kết quả thống kê của Viện Dược liệu (Bộ Y tế), Việt Nam đã xác định được 3.830 loài cây dược liệu dùng làm thuốc, chiếm khoảng 36% trong số 10.500 loài thực vật bậc cao có mạch đã biết.

So với 35.000 loài cây làm thuốc trên toàn thế giới, số loài cây thuốc Việt Nam chiếm khoảng 11%. Sự hiểu biết, tri thức truyền thống về cây thuốc của các dân tộc, cộng đồng, người dân bản địa khác nhau đã tạo ra các bài thuốc gia truyền có ý nghĩa trong chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân.

Chỉ tính riêng khu vực Tây Bắc, toàn vùng có hơn 3.500 loài cây thuốc, chiếm tới 70% nguồn dược liệu cả nước từ lâu được xem là thủ phủ dược liệu của Việt Nam. Các loài cây dược liệu quý hiếm như sâm Lai Châu, tam thất hoang hay bảy lá một hoa chỉ có thể sinh trưởng trong điều kiện sinh thái đặc biệt tại đây. Mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng vì thế được đánh giá là giải pháp kinh tế-sinh thái độc đáo, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời phát triển sinh kế bền vững cho người dân.

Nhiều tỉnh đã tập trung phát triển cây dược liệu trong rừng theo phương thức lâm-nông kết hợp, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định đời sống cho người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên này đang bị cạn kiệt, nhiều loại cây không còn khả năng tái sinh, thậm chí có nguy cơ tuyệt chủng... Vì vậy, việc trồng và phát triển cây dược liệu dưới tán rừng không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần bảo tồn nguồn gen quý, bảo vệ đa dạng sinh học của rừng tự nhiên.

Đơn cử tại Bắc Kạn, trên địa bàn tỉnh có hơn 1.000 loại cây dược liệu, trong đó có nhiều cây thuốc quý. Trước thực tế nhiều loài đang có nguy cơ tuyệt chủng, từ năm 2020 đến 2022, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bắc Kạn phối hợp với Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam triển khai thực hiện mô hình trồng rừng kết hợp cây dược liệu làm giảm xói mòn, bồi lấp lòng hồ Ba Bể.

Mô hình được triển khai trên quy mô thực hiện 3ha có 10 hộ tham gia tại thôn Bản Chán và Nà Khâu của xã Đồng Phúc. Các cây trồng được đưa vào thực hiện gồm: Trám đen ghép, dẻ ván ghép và trà hoa vàng là những cây trồng đa mục đích, có hiệu quả kinh tế cao và phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương.

Trong giai đoạn này, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đã tổ chức hội thảo đánh giá bước đầu về mô hình trồng rừng kết hợp cây dược liệu tại Ba Bể, Bắc Kạn, cho thấy tiềm năng giảm xói mòn, bồi lấp và mang lại lợi ích kinh tế, sinh kế cho người dân. Tỉnh Bắc Kạn cũng đang triển khai các dự án, chính sách để phát triển vùng nguyên liệu dược liệu dưới tán rừng, với mục tiêu mở rộng diện tích, nâng cao giá trị sản phẩm và tạo chuỗi giá trị bền vững.

Chờ “cú hích” chính sách

Theo TS. Phạm Quang Tuyến, Viện Nghiên cứu Lâm sinh (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam), việc phát triển dược liệu dưới tán rừng hiện gặp nhiều rào cản do thiếu chính sách đặc thù. Các văn bản pháp lý hiện hành chỉ lồng ghép nội dung dược liệu trong lĩnh vực lâm nghiệp hoặc y học cổ truyền, chưa có hành lang pháp lý riêng cho ngành này.

Hệ quả là nhiều địa phương gặp khó khi xây dựng vùng nguyên liệu quy mô lớn, thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật về khai thác bền vững và chưa thể thu hút doanh nghiệp đầu tư do không có cơ chế tín dụng, bảo hiểm rủi ro phù hợp.Trong khi đó, nhu cầu dược liệu đang ngày càng tăng.

“Mỗi năm Việt Nam tiêu thụ khoảng 80.000 tấn dược liệu nhưng mới đáp ứng được 20-30%. Phần còn lại chủ yếu phải nhập khẩu, trong đó không ít sản phẩm chất lượng kém hoặc không rõ nguồn gốc”, ông Tuyến nêu vấn đề.

Theo TS. Tuyến, nếu tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị bài bản, phát triển vùng trồng đạt chuẩn và tăng cường chế biến sâu, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội lớn để thay đổi cục diện ngành dược liệu. Do đó, ông đề xuất cần sớm ban hành chính sách riêng cho dược liệu dưới tán rừng, đặc biệt ưu tiên các loài đặc hữu như sâm Lai Châu, tam thất hoang... gắn với quy hoạch ba loại rừng. Đồng thời, cần sửa đổi các quy định liên quan đến thương mại hóa dược liệu quý hiếm, tháo gỡ các vướng mắc về khai thác, vận chuyển và tiêu thụ hợp pháp.

Những kiến nghị của các chuyên gia, nhà khoa học đang được Bộ Nông nghiệp và Môi trươgnf tiếp thu nhằm hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 156/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp. Vấn đề này cũng đã được  Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà lưu ý với ban soạn thảo nghị định tại cuộc họp ngày 13/5/2025.

Liên quan đến cơ chế, chính sách, Phó Thủ tướng cho rằng Nghị định phải thiết kế cơ chế khuyến khích, ưu đãi về máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ, tín dụng, đất đai xây dựng kho bãi, nhà xưởng chế biến… cho doanh nghiệp tổ chức liên kết với người dân trong nuôi, trồng phát triển các vùng dược liệu quy mô lớn. Từ đó tạo ra được các chuỗi giá trị sản phẩm dược liệu mang thương hiệu của địa phương, quốc gia, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế, đủ điều kiện xuất khẩu.

“Nghị định cần chú trọng đến vai trò cộng đồng, giữ dân mới giữ được rừng, người dân phải có sinh kế, cuộc sống ổn định từ chính sách nuôi, trồng phát triển, thu hoạch cây dược liệu”, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh.

“Nếu có chính sách phù hợp và kịp thời, dược liệu dưới tán rừng không chỉ giúp người dân làm giàu mà còn là chìa khóa giữ rừng, đưa Việt Nam lên bản đồ dược liệu toàn cầu”. (TS. Phạm Quang Tuyến, Viện Nghiên cứu Lâm sinh)

Đăng ký đặt báo