Văn hóa dòng họ không phải là một nét riêng của Việt Nam, mà nó là một nét phổ quát của nhân loại. Nhưng chỉ có ở các nước ảnh hưởng của Nho giáo xưa thì văn hóa dòng họ mới được xem trọng với tất cả sự nghiêm cẩn của nó.
Ở Việt Nam, văn hóa dòng họ trở thành một nét đặc thù, trước hết bởi văn hóa căn bản của Việt Nam là văn hóa làng. Mỗi làng là một khu dân cư khép kín, trong đó là các dòng họ sống quần tụ bao đời sau lũy tre xanh. Ở đó, mỗi cá thể luôn thuộc về một gia đình, mỗi gia đình thuộc về một dòng họ. Nhiều dòng họ sống quần tụ bên nhau tạo thành một làng.
Gia phả - bộ sử của dòng họ
Với quan niệm “Quốc hữu sử, Gia hữu phả” thường là câu mở đầu của các gia phả. Gia phả không chỉ cho biết việc của một dòng họ, quá trình thiên di phát tán, phát triển của một dòng họ mà còn cho chúng ta biết về sự hình thành một vùng đất, những cư dân đầu tiên đến khai khẩn, sinh cơ lập nghiệp, và sự đóng góp của các dòng họ cụ thể đối với một làng quê, một vùng đất cụ thể...
Nhiều gia phả dòng họ lớn đã ghi được nhiều sự kiện mà chính sử đã không thể ghi chi tiết, từ đó đã bổ sung cho chính sử. Nước có sử để biết sự phế hưng của các triều đại, nhà có phả để biết sự kế tiếp của các thế thứ.
Gia phả vì vậy trở thành một báu vật truyền gia của các dòng họ. Gia phả chính là cuốn sách trình bày về thế thứ, cội nguồn của mỗi cá nhân, trong sợi dây linh thiêng nối giữa người đã khuất với người con cháu, giữa người già với người trẻ, giữa người trong làng với các con cháu đã đi khỏi làng.
Gia phả nối cõi âm với cõi dương, nối linh thiêng quá khứ vào đời sống hiện tại. Gia phả chỉ được mở vào ngày giỗ tổ hoặc ngày chạp họ với sự chứng kiến của các thành viên cao niên và các trưởng chi trong họ.
Gia phả không những là một nguồn tư liệu để tìm hiểu về đạo lý gia đình, gia tộc; đây còn là tài liệu nghiên cứu về các sự kiện và nhân vật lịch sử đất nước, hoặc các triều đại mà vị trong các dòng họ có tham gia (như gia phả họ Nguyễn ở Cổ Đô (Ba Vì, Hà Nội); họ Nghiêm ở Hòa Xá (Ứng Hòa, Hà Nội); họ Nguyễn ở Nghi Xuân (Hà Tĩnh)…
Gia phong và gia huấn - duy trì nếp nhà và đạo lý
Ý thức về dòng họ đi liền với việc xây dựng và duy trì nền nếp gia phong rất được người xưa quan tâm. Trong một làng, có các dòng họ khác nhau, và tùy theo nền nếp riêng được tạo dựng từ trong lịch sử, mỗi dòng họ tạo nên sự khác biệt, làm nên vẻ đa dạng của văn hóa dòng họ, đó là sự định vị của dòng họ: Dòng họ khoa bảng với nhiều người đỗ đạt, dòng họ nối đời về nghề nghiệp (nghề thuốc, nghề thủ công mỹ nghệ),…
Chính những dòng họ đó, nhiều khi sự thành đạt đã vượt ra khỏi khuôn khổ một dòng họ, thành ra sự nổi tiếng cho cả làng, vì vậy có các làng khoa bảng (Mộ Trạch, Đại Áng, Quỳnh Đôi, Tam Sơn…). Một số dòng họ như họ Nguyễn ở Bình Vọng (Thường Tín, Hà Nội) nổi tiếng về nghề sơn thiếp, làm dù, làm lọng khiến cả làng nổi tiếng, họ Phạm ở Đan Loan (Hải Dương) có nghề nhuộm rồi phát triển ra cả Thăng Long. Để giữ gìn thanh danh dòng họ và bí quyết của nghề nghiệp, các dòng họ thường có bản gia huấn riêng của mình dùng để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nói đến gia huấn, người ta vẫn nghĩ đến một cuốn sách giấy dó, trên viết chữ Hán Nôm, ít người biết gia huấn còn được khắc trên đá. Chọn hình thức lưu giữ trên bia đá, hẳn các nhà Nho mong muốn những lời giáo huấn này sẽ lưu truyền mãi mãi và vững bền như cùng các giá trị truyền thống của các bản gia huấn. Đó là những quyển sách đá ghi những lời vàng ngọc của tổ tiên truyền dạy lại cho con cháu. Một số gia huấn được khắc trên bia đá rất độc đáo.
Đặc biệt nhất, phải kể đến bia Vũ Vu thiển thuyết khắc cả một cuốn sách của Ninh Ngạn (1715 - 1781) được con trai là Ninh Tốn dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), hiện đặt tại nhà thờ họ Ninh ở xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp tỉnh Ninh Bình. Văn bia gồm 2 phần. Phần 1 là lời dẫn ghi lại sự nghiệp của Ninh Ngạn và tác phẩm của ông. Phần 2 khắc toàn văn bộ sách gồm 2 quyển thượng, hạ, gồm 45 chương sách.
Trong đó có các chương 1 và 2 bàn về chữ hiếu, cách đánh giá về hiếu và bất hiếu; chương 3 bàn về quan hệ giữa nuôi và dạy con cái trong gia đình; chương 6 và 7 bàn về quan hệ vợ chồng; chương 8 và 9 bàn về Nhân và Tín; chương 10 bàn về đạo làm người; chương 12 bàn về ba loại “tâm bệnh” là giầu, sang và thọ; chương 13 bàn về việc phải coi điều thiện làm thầy, thấy ai có điều thiện, dù là kẻ dưới đều nên coi là thầy mà học; chương 29 và 30 bàn về việc làm điều tốt không cốt ở tiếng khen, đánh giá người phải xét ở lời nói và việc làm; chương 31 và 32 bàn về việc lập đức, lập thân và lập danh; chương 33 và 34 chuyên bàn về những điều cần tránh như rượu chè, cờ bạc, sắc dục, lười biếng, nói năng khinh xuất; chương 39 và 40 bàn về sống - chết, vinh - nhục ở đời./.