Trong 5 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản thu về hơn 24 tỷ USD

Theo báo cáo từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố, trong 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 24,14 tỷ USD, tăng 21% (tương ứng 4,2 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước.
anh-xuat-khau-nong-lam-thuy-san-1717124782.jpg
Chỉ số kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản trong 5 tháng đầu năm 2024 có dấu hiệu tăng trưởng cao. (Ảnh TL)

Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 5 đạt 5,06 tỷ USD, tăng 11,2% so với tháng 5/2023; trong đó, nông sản chính đạt 2,73 tỷ USD, tăng 14,3%, lâm sản 1,35 tỷ USD (tăng 17,9%), chăn nuôi 45,8 triệu USD (tăng 10,2%). Riêng thủy sản đạt 780 triệu USD (giảm 3,5%) và đầu vào sản xuất 153 triệu USD(giảm 6,9%).

Tính chung 5 tháng, hầu hết các nhóm hàng đều tăng nên kim ngạch xuất khẩu tăng, đạt 24,14 tỷ USD (tương ứng 4,2 tỷ USD). Đóng góp vào kết quả này có: Nông sản đạt 13,11 tỷ USD, tăng 27,7%; lâm sản 6,58 tỷ USD, tăng 22,7%; thủy sản 3,5 tỷ USD, tăng 3,6%; chăn nuôi 199 triệu USD, tăng 5,6%. Riêng nhóm đầu vào sản xuất đạt 756 triệu USD, giảm 1,3%.

Về giá trị xuất khẩu, hầu hết các mặt hàng chủ lực đều cao hơn cùng kỳ năm trước, như: Gỗ và sản phẩm gỗ 6,14 tỷ USD (tăng 23,6%); cà phê 2,9 tỷ USD (tăng 44,1% với lượng 833 nghìn tấn, giảm 3,9%); gạo 2,65 tỷ USD (tăng 38,2% với lượng 4,15 triệu tấn, tăng 14,7%); điều 1,55 tỷ USD (tăng 19,3% với lượng 288 nghìn tấn, tăng 30,6%); rau quả 2,59 tỷ USD (tăng 28,1%); tôm 1,3 tỷ USD (tăng 7,5%).

Xuất khẩu cà phê đang đạt được mức tăng ấn tượng nhất, với 2,9 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2024, tăng 44,1% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu gạo tiếp nối phía sau, trong 5 tháng đầu năm đã xuất khẩu 4,15 triệu tấn gạo, đem về 2,65 tỷ USD, tăng 14,7% về lượng và 38,2% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Với thị trường lúa gạo trong nước, giá lúa, gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long tăng nhẹ so với tháng trước. Tại Tiền Giang giá gạo nguyên liệu thành phẩm 25% tấm có giá trung bình 10.500 đồng/kg; loại 5% tấm có giá 11.200 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg so với tháng trước.

Giá xuất khẩu bình quân: gạo 638 USD/T, tăng 20,5%; cà phê 3.482 USD/T, tăng 49,9%; cao su 1.504 USD/T, tăng 8,8%; hạt tiêu 4.308 USD/T, tăng 39,3%. Tuy nhiên hạt điều chỉ đạt 5.378 USD/T, giảm 8,6%; chè 1.656 USD/T, giảm 0,8%

Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng cho biết vừa qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã ký hợp đồng xuất khẩu gạo với giá thấp hơn so với giá thị trường hiện nay, đang dấy lên lo ngại sẽ gây tác động xấu tới xuất khẩu gạo nước ta, đồng thời sẽ ảnh hưởng đến việc giá lúa của bà con nông dân sắp tới.

Thực tế chi phí sản xuất lúa của nông dân đã tăng hơn so với trước đây nên lợi nhuận của nông dân hiện nay rất thấp. Theo một số chuyên gia, cơ quan quản lý cần giám sát và có động thái chấn chỉnh việc "bán phá giá" này, đồng thời thành lập sàn giao dịch gạo để minh bạch thông tin thị trường, thậm chí áp giá sàn xuất khẩu gạo như từng được Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) áp dụng trước đây.

Đối với lĩnh vực thủy sản, tuy chưa đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ như với các mặt hàng nông sản và lâm sản, nhưng xuất khẩu thủy sản sản đã có dấu hiệu hồi phục trở lại. Kim ngạch xuất khẩu cá tra trong 5 tháng đầu năm ước đạt 725 triệu USD, tăng 2% so với cùng kì năm 2023.

Thị trường nhập khẩu cá tra Việt Nam lớn nhất trong 5 tháng đầu năm vẫn là Hoa Kỳ, sau đó đến Trung Quốc, tiếp theo là châu Âu và một số thị trường Nam Mỹ khác.

Đối với thị trường Hoa Kỳ, riêng phile cá tra đông lạnh vẫn là mặt hàng chủ lực của xuất khẩu sang thị trường này. Tính đến hết tháng 5/2024, xuất khẩu phile cá tra đông lạnh sang Hoa Kỳ đạt hơn 120 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2023, chiếm 98% tỷ trọng trong tổng giá trị xuất khẩu cá tra sang Hoa Kỳ.

Theo báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, về thị trường, giá trị xuất khẩu vào các thị trường đều tăng. Trong đó xuất khẩu sang Châu Á đạt 11,31 tỷ USD (tăng 17,5%); Châu Mỹ 5,4 tỷ USD (tăng 23,1%); Châu Âu 3,2 tỷ USD (tăng 39,4%); Châu Phi 459 triệu USD (tăng 26,1%) và Châu Đại Dương 341 triệu USD (tăng 24,8%).

Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất; giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm 20,6%, tăng 23,9%; Trung Quốc chiếm 19,2%, tăng 8,6% và Nhật Bản chiếm 6,7%, tăng 6,6%./.

Quốc Cường