Triển vọng tăng trưởng kinh tế phụ thuộc lớn vào tốc độ và quy mô tiêm vaccine

Sáng 18/10, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) tổ chức buổi trao đổi trực tuyến với chủ đề "Đánh giá tình trạng kinh tế Việt Nam 2021 và dự báo những rủi ro trong năm 2022".
gdp-growth-1634535780.jpg
Ảnh minh họa, nguồn Financialexpress.com

Tại buổi trao đổi này, các chuyên gia nhận định, triển vọng tăng trưởng kinh tế phụ thuộc lớn vào tốc độ và quy mô tiêm vaccine; hiệu quả, phản ứng phụ của các biện pháp phòng chống dịch bệnh; hiệu quả thực chất của các gói hỗ trợ, thúc đẩy tăng trưởng. Nợ xấu tiếp tục tích lũy và có thể tăng mạnh khi vượt ngưỡng chịu đựng của doanh nghiệp. Đây là nguyên nhân tiềm tàng gây ra rủi ro cho hệ thống tài chính trong thời gian sau dịch. Do vậy, cần chuẩn bị các tình huống cực đoan để chủ động đối phó, tránh rối loạn và bất nhất như thời gian qua.
Theo TS. Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam, thời gian vừa qua, tốc dộ tiêm chủng chậm khiến Việt Nam bị lỡ nhịp hồi phục trong năm 2021, có thể dẫn tới mất lợi thế tương đối. Mức độ tiêm phủ vaccine của Việt Nam so với thế giới ở mức tương đối thấp.
Hiện nay, sự bùng phát dịch lặp lại trong năm đã làm nền kinh tế bị đình trệ, đứt gãy chuỗi cung ứng, xáo trộn thị trường lao động, doanh nghiệp nội địa bị tổn thương rất nặng nề. Cùng với đó, các động thái địa chính trị và diễn biến kinh tế thế giới có thể tăng rủi ro cho yếu tố đầu vào của doanh nghiệp như giá nguyên liệu.
“Kết quả tăng trưởng của 9 tháng năm 2021 chưa thực sự phản ánh hết những khó khăn của nền kinh tế, đặc biệt là đối với khu vực phi chính thức. Sức đề kháng của doanh nghiệp đang suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là tại khu vực phía Nam”, ông Nguyễn Đức Thành nói.
Theo PGS.TS. Phạm Thế Anh - Chuyên gia Kinh tế Vĩ mô; Trưởng bộ môn Kinh tế Vĩ mô, trường Đại học Kinh tế Quốc dân; Kinh tế trưởng VESS,  thời gian qua, do tác động của dịch bệnh nên sức cầu yếu, không lưu thông được hàng hóa… Dù vậy, nguy cơ lạm phát vẫn tương đối lớn.

Lý giải vấn đề này, PGS. TS. Phạm Thế Anh cho hay, trước sau gì, chi phí sản xuất cũng sẽ phản ánh vào giá đầu ra sản phẩm, từ xăng dầu, logistics, chi phí phòng chống dịch bệnh, doanh nghiệp đang gánh chịu rất lớn. Khi hoạt động xã hội trở lại, nhu cầu tiêu dùng tăng lên, những yếu tố đó sẽ tác động vào giá cả và sức ép lên lạm phát. Dự báo, giá thực phẩm lương thực cuối năm có thể sẽ tăng trở lại, do những khó khăn về tăng nguồn cung như tái đàn, mưa bão,… trong khi nhu cầu tăng về cuối năm.
Ông Nguyễn Đức Thành cho hay, dự báo tăng trưởng năm 2021 ở kịch bản cao khi cả nước thống nhất được các biện pháp thích ứng với dịch bệnh và đảm bảo sản xuất lưu thông hoàng hóa, không bị đứt gãy từ quý IV năm nay. Các hoạt động sản xuất tiêu dùng được phục hồi, tiêm chủng được mở rộng ra các tỉnh trong những tháng cuối năm. Như vậy, tăng trưởng GDP có thể đạt dưới 2%, khoảng 1,8%.

Tuy nhiên, ở kịch bản thấp, khi chính sách chưa có sự đồng bộ ở các địa phương, trung ương và bệnh dịch tái phát ở một số địa phương làm cho việc lưu thông khó khăn. Doanh nghiệp khó có kế hoạch sản xuất, các đơn hàng tiếp tục rời khỏi Việt Nam do đứt gãy cung ứng, thiếu hụt lao động, chi phí tăng cao đầu vào...
“Với kịch bản này, tăng trưởng GDP có thể chỉ ở mức 0,2%, dù không ở mức tăng trưởng âm, nhưng đây là mức rất thấp. Chỉ một vài tuần nữa thôi, thông qua các diễn biến kinh tế, chống dịch, chúng ta sẽ nhìn thấy kịch bản nghiêng về bên nào”, ông Nguyễn Đức Thành nói.
Ông Nguyễn Đức Thành cho hay, để đảm bảo tăng trưởng ở kịch bản cao, nhà nước đặt ưu tiên đẩy nhanh tiến độ và quy mô tiêm chủng về các địa phương; khai thông đi lại và lưu thông hàng hóa; thực hiện các gói tài khóa tập trung vào củng cố hạ tầng, trang thiết bị y tế, y bác sĩ, đồng thời hỗ trợ người lao động mất việc đặc biệt trong khu vực phi chính thức. Đặc biệt, cần yêu cầu lãnh đạo tỉnh thực hiện đầy đủ nghĩa cụ tiếp nhận người lao động trở lại địa phương trên toàn quốc. Việc tiếp nhận trở lại địa phương là nghĩa vụ mà Việt Nam thực hiện rất tốt.
Với các chính sách tiền tệ, có thể đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế nhưng cần có biện pháp kiểm soát tăng trưởng cung tiền quanh mức 10%, đi kèm các biện pháp kiểm soát rủi ro ở mức vừa phải. Việc huy động nguồn lực xã hội cần thống nhất thực hiện thông qua công cụ lãi suất và các cơ chế đã có trên thị trường tài chính, mà đối tượng điều hành duy nhất là tiền đồng Việt Nam.../.