Thẻ vàng và những hệ lụy của ngành kinh tế biển

Sau gần bốn năm nỗ lực thực thi các khuyến nghị của Ủy ban châu Âu (EC), liệu Việt Nam có sớm trở thành nước thứ ba tại Đông Nam Á sau Thái Lan, Philippines gỡ được “thẻ vàng”?
tv-1696747442.jpg
Thẻ vàng và những hệ lụy của ngành kinh tế biển - Ảnh minh họa.

Đáp ứng những khuyến nghị từ phía EC về chống đánh bắt hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU), năm 2017, Việt Nam đã ban hành Luật Thủy sản cùng với đó là hàng loạt nỗ lực khác nhau để phát triển bền vững ngành xuất khẩu mũi nhọn này. Đáng chú ý, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở dữ liệu tàu cá (đăng ký, đăng kiểm, cấp giấy phép khai thác thủy sản) kết nối từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, phía EC tuyên bố, chừng nào còn tàu cá vi phạm khai thác IUU, chừng đó thủy sản Việt Nam vẫn chưa thể tháo gỡ “thẻ vàng”.

Phải thực hiện được mục tiêu đến cuối năm 2021 chấm dứt được tình trạng tàu cá địa phương vi phạm khai thác hải sản ở vùng biển nước ngoài, để gỡ cảnh báo “thẻ vàng” của EC. Việc này không chỉ vừa bảo đảm lợi ích, sinh kế lâu dài của ngư dân mà còn bảo vệ uy tín ngành thủy sản Việt Nam và hình ảnh của nước ta trong quan hệ quốc tế.

Theo báo cáo “Đánh giá tác động kinh tế từ phân tích thương mại của việc không tuân thủ quy định chống khai thác IUU: Trường hợp Việt Nam” do Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) phối hợp Ngân hàng Thế giới (WB) công bố, so sánh kết quả xuất khẩu 2017-2019, sau hai năm chịu tác động từ thẻ vàng IUU, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) giảm 12%, tương đương 183,5 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủy sản giảm hơn 10% sau hai năm, tương đương giảm 43 triệu USD; trong đó, bạch tuộc giảm mạnh nhất 37%, nhuyễn thể hai mảnh vỏ giảm 11%, cá ngừ giảm gần 2%, cua giảm 11%. Xuất khẩu các sản phẩm nuôi trồng sang EU cũng giảm 13% từ năm 2017 đến năm 2019.

Xu hướng giảm này tiếp tục kéo dài hơn nữa vào năm 2020, đặc biệt do bị tác động kép bởi dịch Covid-19, thẻ vàng IUU và Brexit (Anh rời EU), xuất khẩu thủy sản sang thị trường này giảm 5,7% so năm 2019, chỉ đạt 959 triệu USD. Kể từ năm 2019, EU đã tụt từ vị trí thứ hai xuống vị trí thứ tư trong các thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam, sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, EU vẫn là thị trường lớn có tính định hướng và chi phối đối với các thị trường khác và là đối tác quan trọng với ngành thủy sản Việt Nam.

Đến nay, cả nước đã thực hiện lắp đặt thiết bị VMS trên 26.915 tàu cá, đạt tỷ lệ 87,45%. Song, một số địa phương còn triển khai chậm, có địa phương đạt dưới 50% số tàu được lắp thiết bị giám sát hành trình như Thanh Hóa, Quảng Trị... Nghiêm trọng nhất là tình trạng tàu cá vi phạm vùng biển các nước trong khu vực vẫn xảy ra, còn tình trạng không gắn thiết bị VMS cũng như bảo đảm thiết bị bật, phát tín hiệu khi tàu cá hoạt động biển theo quy định của pháp luật... đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc gỡ “thẻ vàng” IUU. Ngoài việc quản lý tốt đội tàu, việc truy xuất nguồn gốc thủy sản cũng là bước then chốt để thuyết phục EC gỡ “thẻ vàng”. EC sẽ thanh tra việc đánh bắt cá ở vùng biển nào, kinh độ, vĩ độ ra sao, thời gian nào, mang cá về cảng phân loại ra sao, mang về kho chế biến xuất khẩu đi những thị trường nào, còn tồn bao nhiêu. Tuy nhiên, việc này vẫn còn nhiều khó khăn vì hạ tầng thủy sản thời gian qua chưa được đầu tư đúng mức…

Trong thời gian bị áp “thẻ vàng”, 100% số container hàng hải sản xuất khẩu bị giữ lại cảng đến để kiểm tra nguồn gốc khai thác. Điều này khiến cho doanh nghiệp không chỉ mất thêm thời gian thông quan (có khi phải mất 3 - 4 tuần/container) mà còn tốn thêm chi phí, chỉ riêng kiểm tra “nguồn gốc” là khoảng 500 bảng Anh/container, chưa kể phí lưu giữ cảng… Rủi ro nhất là tỷ lệ lớn các container hàng bị từ chối, trả lại, khiến doanh nghiệp chịu tổn thất nặng nề. Tác động gián tiếp là việc giảm sút uy tín, gia tăng gánh nặng kiểm soát hải quan đối với sản phẩm nuôi trồng thủy sản xuất khẩu vào châu Âu và không tận dụng được hết thế mạnh của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).

Nếu lệnh cấm kéo dài có thể gây gián đoạn xuất khẩu thủy sản Việt Nam, ảnh hưởng đến đời sống của cộng đồng ngư dân ven biển và mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu hằng năm từ 7 - 9% và đạt 16 - 18 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu vào năm 2030. Ngoài ra, việc bị cảnh báo “thẻ vàng” cũng như việc khắc phục “thẻ vàng” chậm, không hiệu quả sẽ làm ảnh hưởng xấu đến uy tín, vị thế, quan hệ ngoại giao của Việt Nam nói chung và ngành thủy sản nói riêng trên các diễn đàn khu vực và thế giới.

“Thẻ vàng” thủy sản được EC đưa ra đối với những nước có vi phạm quy định chống khai thác IUU. Từ năm 2012 đến nay, có 27 nước đã bị EC cảnh báo thẻ; trong đó, 21 nước bị cảnh báo “thẻ vàng” và sáu nước bị áp dụng biện pháp “thẻ đỏ”. Đến nay, đã có ba nước gỡ được “thẻ đỏ”, 14 nước gỡ được “thẻ vàng”. EC đưa ra bốn nhóm khuyến nghị yêu cầu Việt Nam cần thực hiện trong thời gian tới gồm: (1) Khung pháp lý; (2) Theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá, quản lý đội tàu; (3) Chứng nhận sản lượng và truy xuất nguồn gốc thuỷ sản từ khai thác; (4) Thực thi pháp luật.

Để gỡ được “thẻ vàng” các địa phương cần nâng cao năng lực giám sát thực thi khai thác thủy sản. Về vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương phải hoạt động mạnh mẽ hơn, kiên quyết hơn trong xử lý các trường hợp vi phạm. Khẩn trương hoàn thành việc lắp đặt thiết bị VMS, đánh dấu tàu cá, đặc biệt là tại các tỉnh Quảng Trị, Trà Vinh, Quảng Ninh, Hà Tĩnh. Kiểm soát chặt chẽ tàu cá ra vào cảng, lao động trên tàu cá, giám sát sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng, đáp ứng nhiệm vụ chống khai thác IUU. Thực hiện công tác xác nhận, chứng nhận nguồn gốc thủy sản theo đúng quy định của pháp luật... Cuộc chơi mang tính toàn cầu không cho phép xuê xoa của người sản xuất nhỏ. Tất cả đều phải tuân theo luật chung để ngành thủy sản Việt Nam phát triển bền vững.

Bùi Long (t/h)