Những cụm từ hay thành ngữ có chữ Hổ

Hổ là loài vật mạnh mẽ, độc đáo và giầu ý biểu tượng, hổ (cọp, hùm, kễnh, ông ba mươi) được lấy làm hình ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ, tục ngữ rộng rãi và thâm thuý của người Việt Nam.
hinh-anh-con-ho-cuc-dep-024656541-1643706415.jpg
Minh họa

Ăn như hùm đơm đó: chỉ người ăn khỏe như Lê Như Hổ chỉ một lát hết ba nồi cơm và sáu mâm cỗ,

Bất nhập hổ huyệt, nan đắc hổ tử: “không vào hang hùm, sao bắt được cọp con?” Có nghĩa là muốn hành động phải quả quyết, dũng cảm.

Chúa sơn lâm: Con hổ được xem là con vật dũng mãnh, có uy quyền nhất, bắt buộc tất cả các loài thú trong núi rừng phải khuất phục. Có khi chỉ cần nói ông chúa sơn lâm là đã hiểu ngay rằng muốn chỉ tới con hổ.
Chưa qua truông đã trật lọ cho khái (HỔ): Câu này lưu hành ở tỉnh Nghệ Tĩnh, có từ địa phương. Truông là đèo núi, lọ là bộ phận sinh dục của nam, khái là một từ đồng nghĩa với cọp. Cả câu có nghĩa: chưa đi khỏi núi, đã tỏ vẻ khinh thường cọp. Việc chưa hoàn thành đã lên mặt tỏ vẻ kiêu căng, biết đâu tai vạ (khó khăn) đang chờ sẵn đâu đó.
Cáo giả oai hùm: Thành ngữ xuất xứ từ một câu truyện ngụ ngôn. Con cáo bảo với cọp rằng chính nó mới là chúa tể sơn lâm, tất cả các thú vật đều sợ. Nếu không tin cọp hãy để nó cỡi đi kh ắp nơi mà xem. Quả nhiên, đi đâu các loài vật đành phải tránh. Chúng sợ cọp, nhưng sợ chúng tưởng là chúng sợ cáo.

Dưỡng hổ di họa: Nuôi cọp trong nhà, đến khi cọp lớn lại bị cọp ăn thịt. Ai hay nuôi cọp để sau hại mình là chỉ vào người không biết đề phòng bọn phản bội, nói về sự dung dưỡng kẻ thù địch ác gian, để tự mình rước họa về sau.
Điệu hổ ly sơn: Đưa cọp ra khỏi núi. Núi rừng là nơi quen thuộc cho cọp tung hoành. Nếu đưa cọp về đồng bằng thì cọp bị lúng túng, dù có hung hăng dữ tợn cũng bị bỡ ngỡ, dễ dàng mắc bẫy như hổ xuống đồng bằng chó liếm mặt. Đưa một người thoát ly khỏi một vùng quen thuộc để họ không có lực lượng hổ trợ, không phát huy là cách điệu hổ ly sơn.
Đuổi hùm cửa trước, rước sói cửa sau: Chống kẻ ác này , nhưng lại chìa tay với kẻ ác khác, không phải là cách ứng xử thông minh. Ngày xưa, đi cầu viện nước này để cự lại nước kia , kết quả là đuổi được kẻ mạnh này thì lại bị kẻ mạnh khác thống trị, là một đừơng lối ngoại viện sai lầm. Đường lối ấy bị lên án là: tiền môn cự hổ, hậu môn tiếng lang.
Hổ đội lối thầy tu: Thành ngữ để chỉ vào kẻ gian dối: mặc áo thầy tu (giả đạo đức) nhưng thực chất là vật ác độc (loài lang sói). Đồng nghĩa với câu: miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Họa hổ bất thành phản loại cẩu: Vẽ hổ không thành con hổ, mà lại giống con chó. Làm việc hết sức mình nhưng không thành công. Thành ngữ thường dùng chỉ lấy 4 chữ đầu: hoạ hổ bất thành. Người dùng câu này, hoặc không tự khiêm tốn khi được giao việc, e không cáng đáng nổi.

Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt: Đây là một trong hai câu thơ, nhắc nhở con người trong việc ứng xử. Nguyên văn: “Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt Tri nhân tri diện bất tri tâm”. Nghĩa là: Vẽ hổ, vẽ da, xương khó vẽ. Biết người, biết mặt, biết lòng sao!? Nghĩa là có thể quan sát được bề ngoài, chứ cái bề quan trọng của con người (hay của sự vật) thì khó mà thấu hiểu được. Do đó, không nên chỉ chú ý bề ngoài.
Hổ bảng: Ngày xưa khi đi thi tiến sĩ, ai đổ được ghi tên lên bảng, gọi là hổ bảng, hay bảng hổ. Hổ bảng cũng có nghĩa la khoa thi tuyển chọn được nhiều người tài
Hổ Bôn: Bôn có nghĩa là chạy, cũng có nghĩa là người dũng sĩ. Hổ bôn có nghĩa là đám quân sĩ mạnh. Hổ bôn trung lang tướng là chức vị của một võ quan cầm đầu đội quân khoẻ mạnh.
Hổ bộ: Bước đi hùng dũng như cọp. Chỉ vào uy vũ của viên tướng hay của đoàn quân.
Hổ cứ: Con cọp ngồi. Hổ cứ là chỉ đạo vào địa thế hiểm yếu.
Hổ cốt
: Xương hổ. Cao hổ cốt là cao nấu bằng xương hổ.
Hổ đầu: Đầu cọp. Hổ đầu cũng chỉ vào tướng mạng hùng dũng.
Hổ lang: Con cọp và con sói. Chỉ vào phường hung ác.
Hổ lĩnh: Oáng chân hổ. Tướng tá tả hữu gồm người khoẻ mạnh thì gọi là hổ lĩnh.
Hổ môn: Cửa ra vào dinh của các tướng soái.
Hổ phù: Ngày xưa, khi được cử ra trận, vị tướng cầm quân được nhà vua giao cho cái phù hịêu làm tin. Phù hiệu làm bằng gỗ, bằng ngà hay bằng kim loại, khắc hình con cọp, cắt làm đôi, viên tướng được cầm một nữa, nữa kia nhà vua giữ.
Hổ phụ sinh hổ tử: Cha hổ sinh con hổ. Ý nói: người con cũng có tài như người cha, gia đình giữ được truyền thống anh hùng. Như câu thành ngữ: cha nào con nấy. Cùng ý nghĩa này, còn có thành ngữ: Hổ phụ lân nhi: cha hổ sinh ra con cũng là con lân, một loài vật xuất sắc. Truyện Nhị độ mai có câu: “Mới hay hổ phụ lân nhi. Khen cho tính trẻ cũng y tính già”.
Hổ quyền: Chỗ nuôi cọp. Ngày xưa, các triều vua phong kiến thường có chổ nuôi cọp, có tổ chức cho cọp và voi đấu sức với nhau. Chỗ ấy gọi là hổ quyền. Tả quân Lê Văn Duyệt lúc làm Tổng trấn Gia Định cũng cho xây hổ quyền để nuôi voi và cọp.
Hổ khê: là khe nước trước chùa Đông Lâm trên núi Cam Lộ thuộc Cửu Giang tỉnh Giang Tây (Tàu) nơi ghi chuyện Đào Tiềm cùng hai nhà sư Lục Tu Tĩnh và Túc Viễn qua khe cọp.
Hổ sinh phong: Nguyên nhân là hổ sinh ra gió, ý muốn nói con người sinh ra tài năng, nay lại có điều kiện cho tài năng phát huy cao độ, như con hổ mọc cánh. Hổ chỉ ở dưới rừng núi, nhưng nếu có cánh thì bay lên trời được. Hùm có cánh thì toàn tài, không ai chế ngự nổi.
Hổ tướng: Tướng dũng mãnh như hổ. Truyện Tam Quốc nói Lưu Bị lên làm vua có năm viên tướng võ nghệ siêu quần phù tá. Năm tướng ấy gọi là Ngũ hổ tứơng (Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung).
Hổ trướng: Xưa kia các vị nguyên soái cầm quân ra trận, tại nơi làm việc thường treo bức màn trướng có vẽ hình con hổ. Vào chỗ này, gọi là đến trước hổ trướng, màn hổ. Hổ trướng dựa theo điển tích trong  “Nam Đường truyện” ghi Vương Từ đời Lương dùng da cọp làm lều trại họp thuộc hạ bàn chuyện quân cơ được đời sau gọi là trướng hổ.

Hổ Trướng Xu Cơ: là tên của một bộ sách quân sự do Đào Duy Từ (1572-1634) sáng tác. Ông là người có công giúp Chúa Sãi vương xây dựng các lũy Thầy và Trường Dục tại Quảng Bình để ngăn chống quân Trịnh. Việc cơ yếu bí mật trong quân Đào Duy Từ phục vụ cho chúa Nguyễn (Đằng trong, thế kỷ 17) có soạn bộ sách binh thư, cũng đặt tên là Hổ trướng xu cơ.

Hùm Chết Để Da: Nguyên trong câu: Hùm chết để da, người chết để tiếng (có khi đọc là báo chết để da). Da cọp dùng làm đồ trang sức y phục. Các loài khác chết đi là hết, riêng da cọp lại thành vật quý.
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn: Câu thơ 2516  trong truyện Kiều, nay đã thành tục ngữ  quen thuộc, dùng để nói về người tài bị rơi vào hoàn cảnh không thuận lợi, bị thất thế thì cũng lâm vòng thất bại. Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này - câu 2016. Truyện Kiều dùng chữ hùm 6 lần, không thấy dùng các chữ hổ, cọp, kễnh, khái…

Khám hổ bì: Xem da cọp: Mấy câu này xuất xứ từ một câu chuyện giai thoại, sau được phổ biến chỉ vào sự giao tế dung tục. Hổ bì là da cọp, cũng chỉ vào vật kín đáo khó xem!
Khoẻ như hùm: (Câu có nghĩa và thông dụng)
Long bàn, hổ cứ: Cái thế đất ở những vùng hiểm yếu ,hoặc có cơ thịnh vượng vì có những hình dánh như rồng phục, hổ ngồi. Thí dụ, thủ đô Thăng Long là nơi vương địa, được vua Lý Thái Tổ cho là có thế long bàn hổ cứ, nên mới dời đô ra đó.
Long thành hổ bộ: Dáng đi của những người có tài, đặc biệt là của các ông vua. Quan sát người có tướng làm vua, thấy họ đi như rồng, bước như hổ (nghĩa là có vẻ uy nghi, đường bệ)
Mãnh hổ nan địch quần hổ: Con hổ tuy mạnh, vẫn không địch nổi một bầy chồn cáo. Chồn cáo đông, cùng hùa vào thì cọp không chống đỡ nổi. Ý khuyến khích sự đoàn kết, và để phòng sự đơn độc lẽ loi.
Miệng hùm gan sứa: Cách nói bề ngoài thì hăng hái, hùng hổ, nhưng thực sự thì lại hèn nhát, sợ hãi. Người tinh ý có thể nhận ra sự tầm thường giả dối này.
Nam thực như hổ, nữ thực như miêu: Con trai ăn như hổ: ăn nhanh, ăn ngấu nghiến. Con gái ăn như mèo: ăn thong thả, nhỏ nhẹ.
Sơn quân, sơn tinh: Vị vua của rừng núi, cũng chỉ vào con hổ. Một số tác phẩm văn chương, thường dùng chữ Sơn tinh, Sơn quân để chỉ vào vua cọp (thí dụ như Sơn quân trong truyện Tống Trân Cúc Hoa). Không nên lầm với Sơn tinh để chỉ vào Tản Viên (trong truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh).
Thế cỡi hổ Cái: thế phải liều, không làm cũng chết, như đã ngồi lưng cọp, thì cứ để thế mà đi ,nhảy xuống sẽ bị cọp cắn. Cũng có thành ngữ đồng ngữ: ngồi lưng cọp!
Tọa sơn quan hổ đấu: Ngồi ung dung trên núi để nhìn hai con hổ đánh nhau. Trong đường lối của những lực lượng đối lập nhau, người ta có cách lựa chiều cho hai thế kia tranh chấp, còn mình đứng ngoài để quan sát. Khi cả hai phía, có phía thất bại, có phía mỏi mệt, mình mới chen vào, được lợi hơn.
Thả hổ về rừng: Bắt được hổ, phải giam giữ nó không cho gây tác hại. Đằng này lại cho nó về rừng để nó được thả sức tung hoành. Trong cuộc sống, dung túng cho một ai đó, đưa hắn về một nơi dễ tung hoành, không bị kìm chế, cũng là thả hổ về rừng.
Tranh ngũ hổ: Người Việt thường vẽ tranh hổ để thờ. Hồ vàng ngồi giữa, bốn bên là hổ trắng, đỏ, xanh, đen. Thật ra đây là do niềm tín ngưỡng mà tưởng tượng ra, chứ trong thiên nhiên không có đủ màu sắc như vậy.

Râu hùm hàm én: Chỉ vào tướng mạo của người anh hùng. Kiều có câu: “Râu hùm, hàm én, mày ngài.”
Rừng già lắm voi, rừng còi lắm hổ: Kinh nghiệm của phường săn, chưa rõ đã được kiểm nghiệm chưa.
Vân tòng long, phong tòng hổ: Mây theo rồng, gió theo hổ. Chỉ vào nhưng cơ hội người anh hùng làm nên sự nghiệp. Gặp hội phong vân, là hàm ý này. Phong tòng hổ, cùng một ý như hổ sinh phong (hùm mọc cánh)
Vuốt râu hùm - Xỉa răng cọp: Chỉ ra những hành động gan góc, liều lĩnh, gặp cọp đã là nguy hiểm, mà còn dám vuốt râu, xỉa răng cọp thì không còn xem sự an toàn ra cái gì nữa./.

Thitaca tổng hợp