Thông tin được nhiều chuyên gia, nhà quản lý và doanh nghiệp quan tâm tại Hội thảo thực trạng chuỗi cung ngành cao su Việt Nam chuẩn bị để đáp ứng quy định chống phá rừng Châu Âu (EUDR) diễn ra chiều 17/5 do Hiệp hội Cao su Việt Nam tổ chức.
EU đứng thứ 3 nhập khẩu các sản phẩm cao su Việt Nam
Sau Trung Quốc và Hoa Kỳ, thị trường EU đứng thứ 3 nhập khẩu các sản phẩm cao su Việt Nam, kim ngạch đạt 469 triệu USD, tương đương 6,5% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam năm 2023. Tuy là thị trường khó tính, nhưng đây là thị trường tiềm năng, có sức mua cao và còn nhiều dư địa, đặc biệt khi có Hiệp định EVFTA.
Theo đại diện Phái đoàn EU tại Việt Nam, Quy định chống phá rừng (EUDR) có hiệu lực từ ngày 29/6/2023. 7 nhóm mặt hàng, trong đó có cao su và các sản phẩm từ cao su sẽ bị cấm nhập khẩu vào EU nếu quá trình sản xuất các mặt hàng này vi phạm các quy định của quốc gia xuất khẩu, gây mất rừng và suy thoái rừng, tính từ thời điểm ngày 31/12/2020 trở về sau.
Trao đổi tại hội thảo, một số ý kiến cho rằng: quy định này ảnh hưởng lớn đến việc cung ứng hàng hóa cao su không chỉ EU mà nhiều thị trường khác, do liên quan đến quản lý nguồn cung nguyên liệu đầu vào, truy xuất nguồn gốc mà EU đang khởi xướng.
Các doanh nghiệp nhập khẩu vào EU có thời gian 18 tháng (đối với công ty lớn) hoặc 24 tháng (công ty vừa và nhỏ) để chuẩn bị cho việc đáp ứng các yêu cầu của Quy định chống phá rừng (EUDR). Khoảng thời gian tuy khá ngặt nghèo nhưng có vai trò quan trọng trong việc duy trì thị trường EU, cũng như những thị trường còn lại bởi nhiều đối tác khác cũng đang rục rịch áp dụng các quy định liên quan đến bảo vệ môi trường.
Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, ngành cao su có chuỗi cung ứng đan xen, phức tạp khó có thể theo dõi, giám sát quản lý, đặc biệt là hộ tiểu điền. Hiện nay, hơn 60% nguồn cung cao su thiên nhiên đến từ hơn 260 ngàn hộ tiểu điền khắp cả nước. Cao su tiểu điền vẫn chưa đáp ứng chứng chỉ điều kiện truy xuất nguồn gốc sản phấm; canh tác trên đất có nguồn gốc không rõ ràng, đất tranh chấp...
Ông Võ Hoàng An, Tổng thư ký Hiệp hội Cao su Việt Nam cho biết: Mặc dù vậy, so với nhiều quốc gia trong khu vực, ngành cao su nước ta cũng có thuận lợi trong việc truy xuất nguồn gốc, nhất là khu vực cao su đại điền. Quan trọng là làm sao chứng minh việc đáp ứng tiêu chí của EUDR thông qua các chứng chỉ giấy tờ...
Cao su tiểu điền khó khăn trong đảm bảo truy xuất nguồn gốc
Hiện nguồn cung cao su nguyên liệu đầu vào cho ngành cao su Việt Nam bao gồm nguồn cung trong nước và nguồn cung nhập khẩu. Nguồn cung trong nước là từ diện tích 918.000 ha trồng cao su, bao gồm nguồn cao su tiểu điền (cung trên 50% trong tổng lượng cung trong nước) và nguồn cao su đại điền (chiếm dưới 50%).
Năm 2023, nguồn cung trong nước đạt khoảng 1,3 triệu tấn. Hiện trên 200.000 ha cao su đã đạt chứng chỉ quản lý rừng bền vững VFCS/PEFC, với 100% diện tích này là các diện tích thuộc Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam. Một diện tích nhỏ khoảng 6.000 ha thuộc một số doanh nghiệp tư nhân và nhóm hộ tiểu điền đã được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC. Diện tích còn lại chưa có chứng chỉ.
Bên cạnh đó, nguồn cung nhập khẩu ngày càng trở nên quan trọng. Năm 2023, Việt Nam nhập khẩu 1,4 triệu tấn cao su nguyên liệu, với trên 80% trong đó là từ Cam-pu-chia, dưới 20% còn lại là từ Lào và một số nguồn khác.
Đầu ra xuất khẩu là các mặt hàng cao su, bao gồm cao su nguyên liệu và sản phẩm cao su. Đây là các mặt hàng có nguồn gốc từ cao su trong nước (đại điền, tiểu điền) và cao su nhập khẩu.
Cũng theo đại diện của Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, để đáp ứng yêu cầu trong Quy đinh của EU về các sản phẩm không gây phá rừng (EUDR), các sản phẩm từ cao su muốn nhập khẩu vào thị trường EU cần được đảm bảo đã được thực hiện đầy đủ các quy định về trách nhiệm giải trình (Due diligence), bao gồm việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm tới từng lô đất sản xuất ra các hàng hóa đó.
Về vấn đề trên, theo ông Hoàng An, Tổng Thư ký Hiệp hội Cao su Việt Nam, các diện tích cao su đại điền của Việt Nam, đặc biệt là diện tích thuộc Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam không đối mặt với khó khăn trong việc đáp ứng với các yêu cầu của EUDR, bởi các diện tích này đã được trồng cao su từ lâu, đất đai có nguồn gốc, ranh giới rõ ràng và có đầy đủ giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, hiện nay khó khăn trong việc đảm bảo truy xuất nguồn gốc của ngành cao su Việt Nam lại nằm ở nguyên liệu của cao su tiểu điền và phần cao su nhập khẩu. Theo ông Nguyễn Vinh Quang, cán bộ nghiên cứu của Tổ chức Forest Trends, hiện tại, chuỗi cung tiểu điền tương đối phức tạp, với cao su khai thác từ các hộ đi qua nhiều khâu trước khi được đưa vào chế biến. Một số diện tích cao su tiểu điền chưa có giấy chứng nhận sử dụng đất. Thông tin về nguồn cung nhập khẩu từ Cam-pu-chia và Lào hiện rất ít. Chuỗi cung nhập khẩu hiện tại không cho phép việc truy xuất nguồn gốc.
Hội thảo cũng thảo luận về khả năng và thách thức của ngành đối với việc đáp ứng các yêu cầu của EUDR, từ đó, đề xuất các giải pháp hướng tới đáp ứng đầy đủ các quy định của EUDR và phát triển bền vững ngành cao su Việt Nam trong tương lai./.