Trước khó khăn, ngành nông nghiệp đã thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch. Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn là khu vực có năng suất lao động thấp, vì vậy, việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp vẫn là những thách thức lớn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và xây dựng nông thôn mới nói riêng.
Sau 35 năm thực hiện Đổi mới đến nay, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và có đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Trong những lúc nền kinh tế gặp khó khăn nhất do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế và các cú sốc từ bên ngoài thì nông nghiệp trở thành bệ đỡ mặc dù chính ngành nông nghiệp cũng chịu nhiều ảnh hưởng của những biến động thị trường và những diễn biến bất lợi của thời tiết và thiên tai. Nông nghiệp phát triển đã đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Không những thế, nông nghiệp còn tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đảm bảo tiêu dùng trong nước, thậm chí một số hàng nông sản xuất khẩu chiếm vị trí cao trong thị trường thế giới. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đất nước đang diễn ra nhanh chóng hiện nay là quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp và chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang hoạt động tại các ngành kinh tế khác. Đây là xu thế tất yếu của quá trình chuyển dịch từ khu vực có năng suất lao động thấp sang khu vực có năng suất lao động cao hơn.
1. Các yếu tố tác động đến năng suất lao động trong ngành nông nghiệp
Năng suất lao động trong ngành nông nghiệp là chỉ tiêu kinh tế, phản ánh sức sản xuất của lao động trong ngành nông nghiệp, đo lường hiệu quả sử dụng lao động của ngành, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) với lao động để sản xuất ra nó.
Vì thế, có thể hiểu năng suất lao động nông nghiệp là tỉ lệ giữa kết quả đầu ra và chi phí lao động đầu vào của ngành nông nghiệp. Năng suất lao động nông nghiệp được tính theo công thức:
W: Mức năng suất lao động
Q: giá trị toàn bộ sản phẩm ngành nông nghiệp sản xuất ra được bao gồm cả chi phí và lợi nhuận.
T: Tổng số công, số lao động làm việc trong ngành.
Ngoài ra, năng suất lao động nông nghiệp còn được tính theo giá trị tăng thêm. Giá trị tăng thêm trong nông nghiệp là VA được tạo ra ở khu vực kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Giá trị tăng thêm = Giá trị sản xuất trừ đi - Chi phí trung gian (VA = GO – IC)
Năng suất lao động trong nông nghiệp tính theo giá trị tăng thêm sẽ phản ánh đúng thực trạng hiệu quả sử dụng lao động vì chi phí trung gian đã được tách khỏi tổng giá trị sản xuất. Phản ánh mức độ hiệu quả của lao động kết hợp với các yếu tố khác, trình độ sản xuất của một tổ chức, đơn vị hoặc một quốc gia trong nông nghiệp.
Năng suất lao động chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Toàn bộ những nhân tố tác động đến đầu vào và đầu ra đều là những nhân tố tác động đến năng suất lao động. Cụ thể:
Thứ nhất, Trình độ chuyên môn và tay nghề của người lao động
Trình độ chuyên môn, tay nghề của người lao động là nhân tố đầu tiên quan trọng nhất tác động tới năng suất lao động. Năng suất ở cả cấp quốc gia, ngành và doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào trình độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, năng lực của đội ngũ lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực và tác phong, ý thức làm việc của người lao động có tác động mạnh nhất đến năng suất lao động, vì đó là yếu tố cơ bản của sự kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Trình độ lành nghề và tác phong, ý thức làm việc của người lao động được thể hiện ra khi họ sử dụng các công cụ sản xuất thành thạo, đáp ứng những yêu cầu về số lượng, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có tính chuyên nghiệp cao. Người lao động có trình độ nghề nghiệp, không những cần có kỹ năng lao động mà còn phải có sáng tạo trong quá trình sản xuất, kết hợp với tác phong, ý thức làm việc thì mới đẩy mạnh năng suất lao động. Thực tế cho thấy chỉ khi nào người lao động, người quản lý có kiến thức và trình độ nghề nghiệp thì mới tiếp cận, nhanh chóng tiếp thu, vận dụng sáng tạo những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại vào việc làm ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có chất lượng, năng suất cao.
Thứ hai, khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
Việc áp dụng công nghệ sản xuất, trình độ khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến vào sản xuất cũng ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất lao động. Năng suất, chất lượng, hiệu quả của từng ngành cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa phụ thuộc rất lớn vào trình độ công nghệ.
Hiện nay, nông nghiệp công nghệ cao đã trở thành xu thế chung. Từ các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp đến người nông dân đều luôn cập nhật và ứng dụng những công nghệ, kỹ thuật mới để nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi KH&CN ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là ứng dụng công nghệ cao vào phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có thế mạnh của các quốc gia và lợi thế đặc thù của từng tiểu vùng sinh thái; vào đa dạng hóa sản phẩm; vào chế biến sâu các loại sản phẩm bằng các công nghệ chiết xuất, chế biến; tăng cường tiếp cận thị trường thông qua việc xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu tập thể, qua hệ thống nhận diện sản phẩm, bao bì, nhãn mác, phương pháp tiếp cận… sẽ góp phần thúc đẩy NSLĐ ngành nông nghiệp phát triển đi lên bền vững.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải mở rộng thị trường xuất khẩu, đòi hỏi sản xuất nông sản phải có sự cải cách về đầu tư và nâng cao trình độ công nghệ; trong đó trọng điểm là nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao nông nghiệp. Cùng với tham vọng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, việc ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất và trình độ tổ chức, quản lý là một đòi hỏi tất yếu đảm bảo hiệu quả kinh tế cao và phát triển bền vững ngành nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nông nghiệp, công nghệ cao, công nghệ tiên tiến đã và đang được ứng dụng trong từng khâu hoặc trong cả chuỗi sản xuất mang lại giá trị gia tăng cao cho sản phẩm nông nghiệp. Đó là những công nghệ tự động, bán tự động trong sản xuất nông nghiệp đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.
Hay công nghệ thông tin được ứng dụng trong quản lý sản xuất nông lâm thủy sản (hệ thống theo dõi, giám sát, điều tiết, dự báo) giúp nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Công nghệ sinh học được ứng dụng trong chọn tạo các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, có sức chống chịu cao
Thứ ba, trình độ tổ chức lao động và khả năng quản lý sản xuất nông nghiệp
Đi đôi với tiến bộ kỹ thuật cần nâng cao trình độ quản lý con người, như phân công và hiệp tác lao động, sự phân bố hợp lý lực lượng sản xuất và nguồn nhân lực… đều là các yếu tố làm tăng năng suất lao động. Xây dựng một nền nông nghiệp định hướng giá trị gia tăng và phát triển bền vững, thay vì chỉ chú trọng đến tăng trưởng về lượng. Vì thế hình thành, phát triển các mô hình tổ chức sản xuất mới nhằm xây dựng những quan hệ sản xuất mới, mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp có tác động rất lớn đến năng suất lao động .
Các phương thức hợp tác, liên kết theo chiều dọc mới xuất hiện thời gian qua trong các ngành hàng, chuỗi giá trị sản phẩm nông sản. Ngoài ra, thực tiễn còn xuất hiện các mô hình liên kết mới theo chiều ngang, liên kết giữa những người sản xuất, các đơn vị kinh doanh với nhau… Đây là những mô hình tổ chức sản xuất được xem là xu thế tất yếu, là tương lai của nền nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất nhằm tăng năng suất lao động.
Khi lực lượng sản xuất liên tục phát triển các yếu tố của quan hệ sản xuất trong nông nghiệp đổi mới tương thích sẽ tạo môi trường cho tăng năng suất lao động. Vấn đề tích tụ ruộng đất, tổ chức sản xuất tập trung; vai trò của quy hoạch và chiến lược phát triển vùng; các mối liên kết dọc và ngang hình thành;những mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nông dân để tạo ra các chuỗi giá trị nông sản hàng hóa lớn hay liên kết giữa nông dân và nông dân trong HTX, tổ hợp tác, câu lạc bộ khuyến nông dựa trên lợi ích và trách nhiệm của các bên với nhau sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động. Các hình thức tổ chức sản xuất làm cho chi phí giao dịch và chi phí triển khai thực hiện các hợp đồng nông sản của doanh nghiệp giảm xuống sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư, Quy mô và hiệu suất tư liệu sản xuất trong nông nghiệp
Trong ngành nông nghiệp, tư liệu sản xuất trong nông nghiệp bao gồm các yếu tố cơ khí máy móc, công cụ sản xuất; các yếu tố hóa học phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; các yếu tố sinh học chủ yếu là giống cây trồng, vật nuôi mà còn nói đến hệ sinh vật, thảm thực vật, vườn cây lâu năm; các yếu tố đất đai: nước, đất, khí hậu. Trong cơ cấu chi phí sản xuất nông nghiệp, ngoài chi phí lao động luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất thì chi phí vật chất chiếm phần lớn, trong đó, phân bón (chủ yếu là phân hóa học) chiếm tỷ trọng nhiều nhất, tiếp đến là hoạt động cơ giới hóa; thuốc bảo vệ thực vật; nước tưới và giống…
Các tư liệu sản xuất này là yếu tố mạnh nhất làm tăng năng suất lao động. Trình độ kỹ thuật của sản xuất được biểu hiện thông qua tính năng của công cụ sản xuất, trình độ sáng chế và sử dụng các đối tượng lao động, các quá trình công nghệ sản xuất. Tính năng của công cụ sản xuất là mực thước quan trọng nhất để đo trình độ kỹ thuật sản xuất. Ngày nay ai cũng thừa nhận, máy móc hiện đại, các yếu tố sinh học là yếu tố mạnh mẽ nhất làm tăng năng suất lao động nông nghiệp. Gắn liền với người lao động để tăng năng suất lao động là công cụ sản xuất, máy móc thiết bị có công nghệ, kỹ thuật ngày càng cao; công cụ sản xuất, máy móc thiết bị hiện đại cùng với quy trình sản xuất và quản lý tiên tiến làm giảm bớt những chi phí trung gian để tăng năng suất lao động nông nghiệp. Vì thế, việc giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu suất tư liệu sản xuất là vấn đề cần thiết phải được đặt ra để giúp cho nông dân được hưởng lợi.
Thứ năm, yếu tố gắn liền với điều kiện tự nhiên
Vai trò của các điều kiện thiên nhiên đối với năng suất lao động là khách quan và không thể phủ nhận. Thời tiết và khí hậu của mỗi nước là khác nhau tác động tới năng suất cây trồng vật nuôi, do đó ảnh hưởng tới năng suất lao động cũng khác nhau. Sản xuất nông nghiệp ở những nước có điều kiện độ phì nhiêu tự nhiên của đất, rừng, biển nghèo nàn; thời tiết, khí hậu khắc nghiệt… sẽ phải chịu chi phí cao hơn những nước có điều kiện thuận lợi. Độ phì nhiêu tự nhiên của đất, rừng, biển khác nhau đem lại sự chênh lệch về năng suất cây trồng, năng suất đánh bắt cá, năng suất tăng trưởng và khai khác rừng một cách rõ rệt.
Ngày nay con người đã có nhiều hoạt động hạn chế tác hại của thiên nhiên đến sản xuất và đạt được kết quả rõ rệt, thông qua kỹ thuật canh tác; dự báo thời tiết; diệt trừ côn trùng phá hoại mùa màng …có thể đem lại những thay đổi tích cực như thu hẹp sản xuất lúa, phát triển thủy sản, ngừng mở rộng diện tích canh tác cà phê và các cây trồng khác, giúp khai thác tiềm năng của ngành nông nghiệp không chỉ về mặt thích ứng mà còn về khả năng sản xuất tăng giá trị, giảm chi phí đầu vào. Do đó yếu tố thiên nhiên vẫn là yếu tố quan trọng đối với năng suất lao động.
2. Thực trạng năng suất lao động nông nghiệp Việt Nam hiện nay hiện nay
Nông nghiệp là ngành kinh tế trụ cột của Việt Nam, ngoài những đóng góp vào GDP, còn có vai trò trọng yếu trong bảo đảm an ninh lượng thực, an sinh xã hội và mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế. Tuy nhiên, NSLĐ của ngành Nông nghiệp hiện nay còn thấp.
Trong khu vực ASEAN, NSLĐ ngành Nông nghiệp của Việt Nam thấp hơn Malaysia gần 12 lần, Thái Lan 2,1 lần và Philipines là 1,8 lần, chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) của ngành Nông nghiệp Việt Nam và các quốc gia khác khu vực ASEAN cho thấy, sự thay đổi về kỹ thuật đóng góp 30% vào sự gia tăng TFP giai đoạn 2011-2015[1]. Điều này khẳng định triển vọng gia tăng NSLĐ ngành Nông nghiệp là nhờ công nghệ. Thực tế cho thấy, công nghệ số đã và đang thâm nhập sâu rộng vào lĩnh vực nông nghiệp. Nông nghiệp công nghệ cao đã được triển khai ở nhiều địa phương như mô hình trồng rau và hoa tại Đà Lạt, mô hình nông nghiệp công nghệ cao tích hợp tại TP. Hồ Chí Minh, khu nhân giống cây lâm nghiệp và trồng rau quả, chăn nuôi, thuỷ sản tại TP. Hà Nội.
Tuy nhiên, sự phát triển kỹ thuật số đã và đang đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, dự liệu được các kịch bản để có thể hạn chế tối đa những tác động tiêu cực và phù hợp với các cam kết quốc tế…Bình quân NSLĐ trong giai đoạn 2015-2020 chỉ đạt khoảng 47.39 triệu đồng/lao động/năm. Tốc độ tăng trưởng NSLĐ của ngành nông nghiệp khá ổn định và đồng đều trong giai đoạn 2015 - 2020 qua đều bình quân đạt trên 5.2%.
Xong nhìn chung mức tăng trưởng NSLĐ chung cho thấy Việt Nam đã thu hẹp hơn được khoảng cách tương đối với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Nhìn chung trong giai đoạn 2015 - 2020, NSLĐ nông nghiệp Việt Nam đạt được mức tăng trưởng nhanh nhưng chưa thực sự hiệu quả và ổn định với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, một số mặt hàng chiếm vị trí xuất khẩu cao trên thị trường thế giới. Năng suất lao động trong nội bộ nhóm ngành trồng trọt, chăn nuôi: Bình quân giai đoạn 2015-2019 nhóm ngành này chỉ đạt: 36.56 triệu đồng/lao động/năm, tốc độ tăng NSLĐ là 8.8%.
Năng suất lao động trong nội bộ nhóm ngành thủy hải sản: Có thể nói giai đoạn 2015- 2020 ngành thủy sản vẫn là ngành xuất khẩu mũi nhọn của nông nghiệp với NSLĐ đạt mức tăng trưởng cao bình quân đạt 39.14 triệu đồng/ lao động/năm.
Năng suất lao động trong nội bộ nhóm ngành lâm nghiệp: Theo số liệu thống kê NSLĐ ngành lâm nghiệp là thấp nhất nhưng lại có tốc độ tăng NSLĐ cao nhất trong 3 nhóm ngành. Cụ thể năm 2016 NSLĐ đạt 25.63 triệu đồng/lao động năm tăng 23% so với năm 2015(theo giá so sánh), đến năm 2017 đạt 29.86 triệu đồng/lao động/năm tăng 11.8% so với năm 2016 nhưng lại giảm so với tốc độ tăng năm 2016 là 11,2%, sang năm 2018 đạt 33.12 triệu đồng/lao động/năm đạt mức tăng trưởng cao nhất trong 5 năm qua là 28.4% đến năm 2019 đạt: 38.39 triệu đồng/lao động/năm tốc độ tăng trưởng bị giảm mạnh xuống mức tăng trưởng âm là (-3.6%).[2]
Tuy nhiên, so với các ngành kinh tế giai đoạn 2015 – 2020, đặc biệt là năm 2021 do ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19, các ngành kinh tế đều bị ảnh hưởng nặng nề và sụt giảm nghiêm trọng về NSLĐ. So với tổng thể chung của cả nước, năng suất lao động theo giá thực tế giai đoạn 2015-2020 của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đều thấp hơn mức tổng thể chung, bình quân luôn ở dưới mức 50% so với tổng thể. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất lao động của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản luôn ở mức cao hơn, năm 2018 là 9,07% so với 5,9%; năm 2020 đạt mức 9,07% so với 4,93%.
Bảng 2.1. So sánh NSLĐ trong nông nghiệp với NSLĐ chung cả nước
giai đoạn 2015 - 2020
Năm |
NSLĐ chung |
NSLĐ nông nghiệp |
||
NSLĐ theo giá thực tế (triệu đồng/người) |
Tốc độ tăng NSLĐ (%) |
NSLĐ theo giá thực tế (triệu đồng/người) |
Tốc độ tăng NSLĐ (%) |
|
2015 |
79.30 |
6.49 |
30.6 |
6.49 |
2016 |
84.50 |
5.31 |
32.9 |
5.58 |
2017 |
92.10 |
6.05 |
35.6 |
6.5 |
2018 |
102.20 |
6.00 |
39.8 |
9.03 |
2019 |
110.50 |
6.20 |
45.35 |
10.65 |
2020 |
117.40 |
4.93 |
52.7 |
9.07 |
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2010 - 2020 - Tổng cục thống kê)
Có nhiều nguyên nhân và yếu tố dẫn đến NSLĐ ngành nông nghiệp của nước ta thấp hơn so với các ngành kinh tế khác và thấp hơn so với NSLĐ ngành nông nghiệp của các nước trong khu vực. Cụ thể như năm 2017: NSLĐ của Việt Nam năm 2017 chỉ bằng 7,2% so với Singapore, 18,4% so với Malaysia, 37,4% so với Thái Lan, 43,1% so với Indonesia, 57,2% so với Philippines và thậm chí chỉ bằng 89,1% so với Lào[3]. Cụ thể:
Một là, trình độ chuyên mô, tay nghề của người lao động còn hạn chế, thiếu hụt lực lượng lao động trình độ cao.
Hai là, trình độ ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật phục vụ cho nông nghiệp còn thấp và lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém.
Ba là, trình độ tổ chức lao động còn chưa hiệu quả, khả năng quản lý sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, phân tán, manh mún, chưa có liên kết lợi ích bền vững giữa các chủ thể tham gia sản xuất, tiêu thụ; chưa hình thành chuỗi giá trị.
Bốn là, quy mô và hiệu quả sử dụng tư liệu sản xuất trong nông nghiệp (đất đai, mặt nước giống cây con, phân bón, máy móc, trang thiết bị bảo hộ,....) chưa được triệt để, lãng phí nguồn tài nguyên.
Năm là: Chịu sự tác động của biến đổi khí hậu diễn ra nhanh với cường độ mạnh, tác động sâu hơn so với khả năng thích ứng của cả ngành nông nghiệp.
3. Giải pháp tăng năng suất lao động ngành nông nghiệp Việt Nam
Để tiếp tục tăng năng suất lao động và duy trì tốc độ tăng năng suất lao động trong nông nghiệp ở mức cao, trong những năm tới, Nhà nước cần thực thi các chính sách đối với ngành Nông lâm nghiệp và thủy sản nhằm tăng cường đầu tư cho sản xuất kinh doanh, đổi mới khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ 4.0 trong mọi lĩnh vực.
Thứ nhất, Hoàn thiện cơ chế chính sách trong nông nghiệp, khuyến khích áp dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa quy mô lớn trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, từng ngành hàng trong sản xuất nông nghiệp. Tiếp tục đầu tư cho các viện, trung tâm nghiên cứu để có đủ năng lực nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật về giống; đặc biệt là quan tâm đến việc chuyển giao các loại giống tốt, sạch bệnh đã qua khảo nghiệm vào sản xuất đại trà. Gắn kết chương trình giống quốc gia với chương trình khuyến nông để chuyển giao nhanh các tiến bộ về giống, kỹ thuật canh tác, thâm canh mới vào vùng sản xuất nguyên liệu.
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp: Trong những năm tới chúng ta cần phải cải cách chất lượng nguồn nhân lực ngành nông nghiệp phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự hoạt động của thị trường lao động bằng cách: Nhà nước nên tập trung vào các chương trình giáo dục khuyến nông, tổ chức các lớp bồi dưỡng về kiến thức cho cán bộ khuyến nông trên phạm vi cả nước để từ đó các cán bộ này hướng dẫn, giúp người dân trong quá trình sản xuất tuy nhiên cũng cần căn cứ vào nhu cầu và thế mạnh của từng địa phương mà có các phương pháp và kỹ năng đào tạo khác nhau. Bên cạnh đó cũng cần phải có những chính sách thu hút lao động nông thôn tham gia vào đào tạo để có tay nghề kỹ thuật cao như: chính sách tuyển dụng đào tạo, chính sách học phí và sử dụng sau đào tạo.
Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với giải quyết việc làm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chuyển mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ đào tạo theo năng lực sẵn có của cơ sở đào tạo sang đào tạo theo nhu cầu học nghề và yêu cầu của thị trường lao động. Gắn đào tạo nghề với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, từng vùng, từng ngành, từng địa phương; Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi để lao động nông thôn tham gia học nghề phù hợp với trình độ học vấn, điều kiện kinh tế và nhu cầu học nghề của mình; Tăng cường công tác tuyên truyền, tư vấn học nghề.
Thứ ba, nâng cao trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp: Xây dựng các chính sách nhằm tích tụ ruộng đất phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp như: Khuyến khích nông dân “dồn điền, dồn thửa” cho phép nông dân sử dụng giá trị quyền sử dụng đất góp cổ phần, làm thế chấp vay vốn ngân hàng, góp vốn để tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết… tiến hành tổng kết bổ sung, sửa đổi luật đất đai, luật thuế…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Năng suất Việt Nam (2017), Báo cáo năng suất Việt Nam
2. Nguyễn Đình Hợi (chủ biên) (2017): “Kinh tế nông nghiệp”, Nxb Tài chính, Hà Nội
3. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (2017) “Năng suất và đổi mới sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam: Phát hiện từ nghiên cứu thực chứng”, Hội thảo quốc tế.
4. Đỗ Xuân Tất (2020) “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam chuyển mình trong đổi mới và phát triển”, Báo Nhân dân.
5. Tổng cục Thống kê (2021),Niên giám thống kê năm 2010-2020, NXB Thống Kê.