Du lịch Việt Nam cần khắc phục những bất cập để khẳng định vị thế ngành kinh tế mũi nhọn

Du lịch Việt những năm gần đây được đánh giá là điểm sáng của “bức tranh” kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, các chuyên gia nhìn nhận: Mục tiêu của Chính phủ xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, nhưng thực tế nhận thức của các cấp, ngành địa phương về nhiệm vụ này vẫn chưa đồng đều, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, gây lãng phí; sự phối kết hợp liên ngành, liên vùng chưa đồng bộ, không thường xuyên và thiếu chặt chẽ…
du-lich-viet-nam-2-1735873906.jpg
Du lịch Việt những năm gần đây được đánh giá là điểm sáng của “bức tranh” kinh tế nước nhà. (Ảnh minh họa)

Nhận diện những khó khăn của du lịch Việt

Du lịch Việt những năm gần đây được đánh giá là điểm sáng của “bức tranh” kinh tế nước nhà. Sự tăng trưởng của ngành này đã tác động lan tỏa sâu rộng đến nhiều ngành, lĩnh vực khác, góp phần tạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xóa đói giảm nghèo, cải thiện diện mạo đô thị và nông thôn; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc…

Mặc dù chưa bao giờ du lịch Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao như trong ba năm 2017-2019, đóng góp 9,2% GDP, song Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam Vũ Thế Bình cho rằng "du lịch vẫn chưa thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và nhiều yếu kém, bất cập vẫn chưa được khắc phục".

Tuy nhiên, đại diện lãnh đạo ngành cũng thừa nhận, nền “công nghiệp không khói” nước ta vẫn đang đối mặt với không ít tồn tại, khó khăn và sẽ còn phải “chỉnh trang” nhiều trên hành trình vươn mình thành ngành kinh tế mũi nhọn như mục tiêu của Chính phủ.

Mục tiêu của Chính phủ xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, nhưng thực tế nhận thức của các cấp, ngành địa phương về nhiệm vụ này vẫn chưa đồng đều, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, gây lãng phí; sự phối kết hợp liên ngành, liên vùng chưa đồng bộ, không thường xuyên và thiếu chặt chẽ…

Đặc biệt, theo Phó Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Phạm Văn Thủy, công tác quản lý nhà nước còn chưa theo kịp thực tiễn, nhất là với các loại hình du lịch mới; quy trình xây dựng, sửa đổi bổ sung văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách liên quan phát triển du lịch còn rườm rà; cơ chế phối hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực du lịch còn hạn chế; hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam dù đã phát triển đa dạng hơn nhưng chất lượng sản phẩm, dịch vụ chưa cao, chưa tạo dựng được thương hiệu đẳng cấp, khả năng cạnh tranh đột phá…

du-lich-viet-nam-3-1735873890.jpg
Đầu tư trong du lịch được ưu tiên với việc huy động nhiều nguồn vốn.(Ảnh minh họa)

Thu hút đầu tư trong ngành du lịch vẫn còn hạn chế

Theo Phó Cục trưởng Cục Du lịch quốc gia Việt Nam, Phạm Văn Thủy, những năm qua, Chính phủ đã dành nhiều sự quan tâm cho ngành du lịch. Đặc biệt, đầu tư trong du lịch được ưu tiên với việc huy động nhiều nguồn vốn, bao gồm các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, đầu tư tư nhân trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các nguồn vốn đầu tư của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ nước ngoài, và các nguồn vốn xã hội hóa khác. Hình thức đối tác công tư (PPP) trong đầu tư phát triển du lịch cũng được triển khai áp dụng, mang lại những hiệu quả tích cực thúc đẩy sự phát triển ngành du lịch.

Việc các tập đoàn lớn, các nhà đầu tư chiến lược tập trung đầu tư tạo nên những sản phẩm du lịch nổi trội, đẳng cấp quốc tế đã góp phần tạo động lực thúc đẩy du lịch phát triển cũng như có tác động lan tỏa, kích thích các ngành kinh tế xã hội khác phát triển theo.

Thông tin từ Viện Chiến lược Phát triển (Bộ Kế hoạch Đầu tư), đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Các dự án FDI về du lịch chủ yếu ở hai lĩnh vực: Dịch vụ lưu trú và ăn uống; Nghệ thuật, vui chơi và giải trí. Tính đến hết năm 2019, cả nước có 839 dự án FDI với tổng số vốn gần 12 tỷ USD trong lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống; 135 dự án FDI với tổng số vốn gần 3,4 tỷ USD trong lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi và giải trí.

Tổng số vốn đầu tư vào hai lĩnh vực nêu trên là 15,4 tỷ USD, bằng 4,2% tổng số 362,6 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Các tập đoàn lớn trong nước đã xây dựng nhiều tổ hợp du lịch quy mô lớn tại Sa Pa, Hạ Long, Sầm Sơn, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Quốc... góp phần đáng kể nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở vật chất du lịch.

Đánh giá tổng quan về đầu tư du lịch ở Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu du lịch, tiến sỹ Nguyễn Anh Tuấn cho rằng sự phát triển của thị trường khách nội địa và sự quan tâm của nhiều thị trường khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng cho thấy cơ hội trong đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng du lịch và các sản phẩm du lịch mới nhằm đáp ứng và đón đầu nhu cầu thị trường. Bằng cách kịp thời nắm bắt và nhận diện rõ nhu cầu, xu hướng mới của thị trường, các nhà đầu tư có thể tận dụng cơ hội để đầu tư, khai thác có hiệu quả các điểm đến mới nổi của du lịch Việt Nam.

Tiềm năng, cơ hội là thế nhưng lãnh đạo ngành du lịch cho rằng hoạt động thu hút đầu tư trong ngành du lịch Việt thời gian vẫn còn hạn chế. Bởi chúng ta thiếu chiến lược thu hút, chưa tạo thuận lợi cho các đơn vị đầu tư, chưa có chính sách ưu tiên, ưu đãi cụ thể cho các nhà đầu tư tại các vùng khó khăn nhưng giàu tiềm năng du lịch.

Thậm chí, nhiều địa phương có tiềm năng du lịch nhưng chưa thu hút được đầu tư, hạ tầng kỹ thuật giao thông tiếp cận nhiều điểm du lịch tiềm năng còn khó khăn, làm nản lòng nhà đầu tư; nhiều dự án đầu tư triển khai chậm tiến độ hoặc thực hiện dở dang…

Cần có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cởi mở, môi trường đầu tư hấp dẫn

Theo Tiến sỹ Nguyễn Anh Tuấn cho rằng cần xóa bỏ rào cản về thể chế, chính sách, khung pháp lý nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, đặc biệt là những ưu đãi, tạo thuận lợi về thuế, đất đai, tín dụng, cải cách thủ tục hành chính, cấp phép đầu tư, quy hoạch...; đầu tư phát triển hạ tầng, đặc biệt là ở những vùng còn khó khăn; đẩy mạnh đầu tư du lịch chuyên nghiệp, thực chất, tránh gây lãng phí nguồn lực.

Để tạo động lực cho các nhà đầu tư trong việc lựa chọn đầu tư vào lĩnh vực du lịch ở Việt Nam, theo Viện trưởng Viện Nghiên cứu du lịch cần dựa trên nhiều yếu tố nội tại như tiềm năng du lịch và thương hiệu điểm đến địa phương để thúc đẩy thu hút đầu tư vào du lịch, đặc biệt là đầu tư từ nước ngoài.

du-lich-viet-nam-4-1735873972.jpg
Cần có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cởi mở, môi trường đầu tư hấp dẫn, đặc biệt là sự sẵn sàng và chủ động của địa phương trong việc thúc đẩy thu hút đầu tư du lịch. (Ảnh minh họa)

Ông Nguyễn Anh Tuấn cũng cho rằng, cần có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cởi mở, môi trường đầu tư hấp dẫn, đặc biệt là sự sẵn sàng và chủ động của địa phương trong việc thúc đẩy thu hút đầu tư du lịch, tạo thuận lợi về thủ tục hành chính trong việc cấp chứng nhận đầu tư du lịch.

Trong nỗ lực vươn mình, ngành du lịch đặt mục tiêu sẽ phục hồi hoàn toàn như trước dịch trong năm 2025; duy trì tốc độ tăng trưởng khách nội địa 8-9% mỗi năm, đóng góp trực tiếp 6-8% vào GDP, tạo 5,5 triệu việc làm trong đó có 1,8 triệu việc làm trực tiếp.

Đến năm 2030, du lịch đặt mục tiêu thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển theo hướng tăng trưởng xanh, đón 35 triệu lượt khách quốc tế và 160 triệu lượt khách nội địa. Mục tiêu đóng góp GDP khi đó là 10-13% và tạo ra hơn 10 triệu việc làm, trong đó có 3,3 triệu việc làm trực tiếp.

Đối diện với các con số mục tiêu tăng trưởng, các chuyên gia đều đồng tình cho rằng chính những “điểm nghẽn” kể trên đã khiến du lịch Việt chưa thể tạo sức bật trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Theo đó, để tháo gỡ những hạn chế còn tồn tại, tạo động lực đưa du lịch phát triển nhanh, bền vững, các chuyên gia đề xuất cần tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư du lịch; thực hiện các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ phát triển du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia về du lịch.

Đặc biệt, cần tăng cường hợp tác công-tư để huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển du lịch; điều chỉnh Luật Du lịch năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết dưới Luật cho phù hợp tình hình thực tiễn, tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho công tác quản lý nhà nước góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển…/.

Trọng Bình