
Phải hoàn thiện cơ sở pháp lý khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi xanh
Việt Nam thể hiện quyết tâm mạnh mẽ thúc đẩy “xanh hóa” nền kinh tế, từng bước hiện thực hoá cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Để đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi sự vào cuộc của các thành phần kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp. Tuy nhiên để cộng đồng doanh nghiệp chủ động tham gia, thúc đẩy quá trình này nhanh hơn, hiệu quả hơn thì điều kiện đầu tiên là phải hoàn thiện cơ sở pháp lý, nhất là các chính sách khuyến khích, hỗ trợ từ Chính phủ, bộ, ngành.
Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2035, đồng thời ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030. Các bộ, ngành, địa phương cũng đã ban hành hoặc lồng ghép các nhiệm vụ, giải pháp về tăng trưởng xanh trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mình.
Chính phủ đã triển khai mạnh mẽ các cam kết tại COP26 bằng việc ban hành nhiều chính sách, chương trình hành động về ứng phó với BĐKH. Nổi bật trong đó là: Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả COP26; Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh; Kế hoạch quốc gia triển khai tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất; Quy hoạch tổng thể phát triển năng lượng quốc gia theo hướng giảm mạnh điện than, thay thế bằng năng lượng tái tạo; Tuyên bố về đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng...
Chiến lược ứng phó với BĐKH đến năm 2050 với nhiều kế hoạch hành động và mục tiêu rất rõ ràng, cụ thể và thiết thực. Đó là việc chủ động thích ứng hiệu quả, giảm mức độ dễ bị tổn thương, tổn thất và thiệt hại do BĐKH; Giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; Tận dụng cơ hội từ ứng phó với BĐKH để chuyển dịch mô hình tăng trưởng, nâng cao sức chống chịu và cạnh tranh của nền kinh tế. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng là tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 24 của Ban Chấp hành Trung ương về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh cũng đề ra hàng loạt nhiệm vụ, giải pháp cho các bên tham gia, với tinh thần không ai bị bỏ lại phía sau. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua, chính sách về tăng trưởng xanh cũng còn nhiều điểm cần tiếp tục hoàn thiện, dư địa dành cho nội dung này còn rất lớn.
Theo ý kiến của đại diện Bộ Tài chính, việc đầu tiên cần triển khai thời gian tiếp theo là phải có hệ thống phân loại xanh quốc gia rất rõ ràng, cụ thể. “Sau khi hệ thống này được ban hành, chúng ta sẽ có hàng loạt cơ chế chính sách ưu đãi kèm theo rõ ràng dành cho doanh nghiệp. Do đó, Chính phủ cũng cho phép áp dụng cơ chế thí điểm liên quan đến tăng trưởng xanh và nội dung cụ thể này trong thời gian tới.
Chúng ta có thể tiếp cận theo hướng lựa chọn những dự án đầu tư thí điểm có tiêu chí nguyên tắc đáp ứng tăng trưởng xanh, cũng như có thể xác định những doanh nghiệp đã thực hiện tăng trưởng xanh như áp dụng công nghệ cao, bảo vệ môi trường, công nghệ hướng tới tương lai về bảo đảm mức khí thải đáp ứng yêu cầu" đại diện Bộ Tài chính cho hay.
Xanh hóa là "giấy thông hành" để doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu
Hiện nay Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Những hiệp định này đều có cam kết về tỷ lệ xóa bỏ thuế quan nhập khẩu đối với những nước tham gia Hiệp định (có thể lên đến 100%). Điều này sẽ tạo ra thách thức đối với những nước phát triển trong việc bảo vệ nền sản xuất trước sự cạnh tranh về giá thành sản xuất từ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam và họ dựng lên, áp dụng thêm hàng rào kỹ thuật. Với những mức thuế nhập khẩu tại các nước tham gia Hiệp định thương mại thế hệ mới có thể về đến 0%, đây sẽ là cơ hội rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
“Tuy nhiên, song hành với quá trình này, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải quyết liệt đổi mới tư duy, đổi mới chiến lược để đáp ứng những yêu cầu về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh. Nghĩa là phải lưu ý các yếu tố liên quan đến chất lượng hàng hóa và những tiêu chuẩn về môi trường, và chúng ta phải tuân thủ luật chơi của các nước phát triển. Ở đây chúng ta phải tranh thủ những lợi thế quốc gia như chi phí nhân công vẫn đủ ở mức cạnh tranh được”, ông Quách Quang Đông, Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững, Bộ Công Thương nhận định.
Doanh nghiệp ở Việt Nam trong quá trình thực hiện tiến trình phát triển xanh với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi họ không có chuyên môn và chuyên gia tham gia, hoặc không có tính đổi mới cao.
Các chuyên gia nhận định, chúng ta cần phải có quyết sách đủ mạnh để cụ thể hóa quan điểm “đầu tư cho môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững”. Quan điểm xuyên suốt là Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt, doanh nghiệp và người dân là trung tâm và chủ thể thực hiện, cùng với sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội.

Hiện nay, nhận thức của cộng đồng DN về kinh doanh bền vững, giảm phát thải ra môi trường đã được nâng lên rõ rệt. Nhiều DN đã và đang lấy kinh doanh xanh là chiến lược và lợi thế cạnh tranh, tiến tới triển khai nhiều hoạt động bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, sự thay đổi mới chủ yếu diễn ra ở khối các DN lớn và có vốn đầu tư nước ngoài, số lượng DN vừa và nhỏ chiếm khá nhiều nhưng chưa quan tâm để chuyển biến rõ nét hơn.
Nhiều tập đoàn kinh tế lớn và các DN đã nhanh chóng đẩy mạnh chuyển đổi xanh phục vụ ứng phó với BĐKH và phát triển kinh tế carbon thấp. Cần lưu ý rằng giảm phát thải khí nhà kính đã trở thành trách nhiệm bắt buộc của DN. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra các quy định DN có lượng phát thải khí nhà kính lớn sẽ bị áp hạn ngạch phát thải và phải thực hiện các biện pháp giảm phát thải theo lộ trình cụ thể. Nếu không thực hiện họ sẽ tự đào thải khỏi thị trường, do chi phí tuân thủ sẽ ngày càng cao và sẽ làm giảm sức cạnh tranh ngay chính trên sân nhà.
Ngoài ra, nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn và đang hội nhập quốc tế. Nhiều DN Việt đang tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu chắc hẳn cũng đã cảm nhận áp lực từ các thị trường quốc tế. Nhu cầu sản phẩm xanh, phát thải carbon thấp đang tăng cao. Rào cản thương mại liên quan đến truy vết phát thải carbon trong suốt vòng đời sản phẩm sẽ ngày càng nhiều. Các cơ chế tài chính, quỹ đầu tư, các bộ, ngành, địa phương cũng sẽ dành phần ưu tiên hơn cho các dự án ít phát thải carbon.
“Các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình sản xuất, quá trình cung ứng dịch vụ phải tính đến các yếu tố về giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đến giảm phát thải, đến các yếu tố về phát huy nguồn lực, đổi mới công nghệ, sáng tạo và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh cũng như khả năng hạn chế rủi ro và chống chịu, nhận thức thấu đáo và áp dụng kinh tế tuần hoàn trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ, tăng cường hội nhập và trách nhiệm đối với toàn cầu”, ông Quách Quang Đông nhận định./.