Doanh nghiệp ngành gỗ cần tăng cường quản trị chuỗi cung ứng, gắn với các tiêu chuẩn xanh, bền vững quốc tế

Năm 2025, ngành lâm nghiệp đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu lâm sản đạt 18 tỷ USD. Các chuyên gia cho rằng các doanh nghiệp chế biến gỗ cần phải tăng cường quản trị chuỗi cung ứng, gắn với các tiêu chuẩn xanh, bền vững quốc tế để giảm rủi ro thương mại, nâng cao sức cạnh tranh của gỗ Việt.
xuat-khau-go-1-1735953178.jpg
Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu lâm sản ước đạt mức kỷ lục 17,3 tỷ USD, tăng 19,4% so với năm 2023. (Ảnh minh họa)

Kim ngạch xuất khẩu lâm sản ước đạt mức kỷ lục 17,3 tỷ USD năm 2024

Thông tin về tình hình ngành lâm nghiệp năm 2024, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, cho biết đã đạt được nhiều kết quả, từ phát triển rừng đến khai thác, chế biến, xuất khẩu lâm sản.

Cụ thể, diện tích rừng trồng mới tập trung cả năm 2024 ước đạt hơn 270 nghìn ha, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 97 triệu cây, tăng 3,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 22,7 triệu m3, tăng 7,9% so với năm 2023.

Về tình hình xuất khẩu lâm sản, ông Trần Quang Bảo cho hay trong tháng 12/2024, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,55 tỷ USD, tăng 6% so với tháng 11/2024 và tăng 15,8% so với 12/2023. Trong đó, riêng sản phẩm gỗ ước đạt 1,1 tỷ USD, tăng 7,5% so với tháng 11/2024 và tăng 15,5% so với tháng 12/2023. Tính cả giá trị lâm sản ngoài gỗ, kim ngạch xuất khẩu nhóm lâm sản trong tháng 12/2024 ước đạt 1,68 tỷ USD.

Luỹ kế cả năm 2024, kim ngạch xuất khẩu lâm sản ước đạt mức kỷ lục 17,3 tỷ USD, tăng 19,4% so với năm 2023. Trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ khoảng 16,3 tỷ USD, còn lại là lâm sản ngoài gỗ. Giá trị xuất siêu của toàn ngành lâm nghiệp năm 2024 ước khoảng 14,4 tỷ USD. Năm 2025, toàn ngành đặt mục tiêu tốc độ tăng giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 4,5 - 5%; phấn đấu giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 18 tỉ USD.

xuat-khau-go-3-1735953217.jpg
Các chuyên gia cũng cho rằng những thay đổi về chính sách của Hoa Kỳ hay xu hướng mua sắm “xanh” của các thị trường lớn cũng mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp gỗ khi đáp ứng nhu cầu về vật liệu xây dựng và nội thất bền vững. (Ảnh minh họa)

Trong bối cảnh, ngày càng nhiều thị trường ban hành quy định pháp luật về gỗ hợp pháp; trong đó có các quốc gia nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… Theo ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) nhận định thời cơ và thách thức đối với ngành gỗ sẽ đan xen; việc EU lùi thời gian áp dụng Quy định không gây mất rừng (EUDR) đến ngày 30/12/2025 đối với các công ty lớn và 30/6/2026 đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo thêm thời gian cho doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị.

Các chuyên gia cũng cho rằng những thay đổi về chính sách của Hoa Kỳ hay xu hướng mua sắm “xanh” của các thị trường lớn cũng mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp gỗ khi đáp ứng nhu cầu về vật liệu xây dựng và nội thất bền vững. Những cơ hội từ sự dịch chuyển đầu tư và thương mại toàn cầu, cùng với sự đầu tư vào chuyển đổi số, quản trị chuỗi cung ứng và phát triển bền vững không chỉ giúp doanh nghiệp thích nghi với các thay đổi của thị trường mà còn mở ra cánh cửa vươn tới những thị trường tiềm năng trong tương lai.

Năng lực cạnh tranh là yếu tố sống còn của doanh nghiệp ngành gỗ

Theo ông Nguyễn Quốc Khanh, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (HAWA), xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đang tăng trưởng nhờ những tín hiệu tích cực từ các thị trường như Hoa Kỳ, EU... Trong đó, Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất, chiếm 52-55% giá trị xuất khẩu gỗ của Việt Nam.

Theo ông Khanh, dự báo với tốc độ tăng trưởng hiện tại, khi thế giới bước vào mùa mua sắm cao điểm cuối năm, có thể chứng kiến xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam mỗi tháng đạt 1,6-1,8 tỷ USD. Qua đó, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm có thể đạt 17,5 tỷ USD", ông Nguyễn Quốc Khanh cho biết.

Việt Nam mỗi năm khai thác gỗ rừng trồng khoảng 22-23 triệu m3. Việt Nam cũng đã có hơn 500.000ha rừng được cấp chứng chỉ bền vững như FSC hoặc PEFC và mục tiêu đến năm 2030 là đạt 1 triệu hecta rừng trồng có chứng chỉ bền vững. Các chính sách thúc đẩy chứng chỉ rừng bền vững đang được tăng cường nhằm đảm bảo tính minh bạch trong chuỗi cung ứng.

Chính phủ cũng phối hợp với các tổ chức quốc tế triển khai công nghệ truy xuất nguồn gốc hiện đại, cho phép giám sát toàn diện từ khai thác, vận chuyển đến tiêu thụ. Điều này không chỉ nâng cao giá trị của sản phẩm gỗ xuất khẩu mà còn tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Đặc biệt mới đây, Nghị định 120/2024/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 102/2020/NĐ-CP ngày 01/9/2020 của Chính phủ quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam đã mở rộng đối tượng phân loại doanh nghiệp gồm doanh nghiệp trồng, khai thác và cung cấp gỗ rừng trồng, chế biến, nhập khẩu và xuất khẩu gỗ. Điều này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh.

Thay cho việc xác minh từng lô gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu thì Việt Nam chuyển sang xác minh sự tuân thủ của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của hệ thống Đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam (VNTLAS).

xuat-khau-go-4-1735953255.jpg
Việt Nam cũng đã có hơn 500.000ha rừng được cấp chứng chỉ bền vững như FSC hoặc PEFC và mục tiêu đến năm 2030 là đạt 1 triệu hecta rừng trồng có chứng chỉ bền vững. (Ảnh minh họa)

Theo ông Đỗ Xuân Lập, năng lực cạnh tranh là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp ngành gỗ phải đáp ứng các yêu cầu của thị trường nhập khẩu như sản xuất minh bạch, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, có mẫu mã đẹp và giá cả hợp lý. Các doanh nghiệp cần đầu tư vào chuyển đổi số, xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch để đáp ứng yêu cầu của các quy định quốc tế như EUDR.

Có sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp, hiệp hội và cơ quan nhà nước để có giải pháp ứng phó kịp thời với các chính sách bảo hộ thương mại của Mỹ. Đặc biệt, việc xác nhận xuất xứ hàng hóa (CO) là công cụ quan trọng chống lại gian lận thương mại. Doanh nghiệp cần sẵn sàng ứng phó với các cuộc điều tra chống bán phá giá hoặc các biện pháp phòng vệ thương mại, thông qua việc nâng cao năng lực pháp lý và cải thiện quản trị rủi ro. Đồng thời, phát triển các nhà máy “xanh” và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về môi trường để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, cho rằng bên cạnh việc xây dựng các khu chế biến công nghệ cao, mở rộng thị phần xuất khẩu, chủ động xúc tiến thương mại gỗ và sản phẩm gỗ, ngành gỗ cần quan tâm hơn và đầu tư vào vùng nguyên liệu. Cụ thể, là phát triển nhiều hơn những rừng trồng gỗ lớn, rừng được quản lý bền vững và cấp chứng chỉ (FSC hoặc PEFC).

Cục Lâm nghiệp đang phối hợp các đơn vị thực hiện thí điểm việc cấp mã số vùng trồng rừng tại một số tỉnh phía Bắc, tiến tới mở rộng ra toàn quốc. Các mã số này là nền tảng phát triển chuỗi cung gỗ hợp pháp, đảm bảo truy xuất nguồn gốc gỗ thích ứng với các yêu cầu quốc tế, cũng như phát triển phương pháp đo đếm, báo cáo và thẩm định (MRV) để xác định khả năng hấp thụ, lưu trữ carbon rừng trồng.

Theo ông Trần Quang Bảo, tiêu chuẩn rừng trồng của Việt Nam càng cao, gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ càng dễ thâm nhập vào những thị trường khó tính./.

Bình Châu