
Chất lượng dòng vốn FDI đang đi đúng định hướng
Bất chấp xu hướng sụt giảm dòng vốn toàn cầu, 11 tháng đầu năm 2025, Việt Nam ghi nhận tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, vốn FDI thực hiện ước đạt 23,6 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ. Đây là mức giải ngân cao nhất của 11 tháng trong suốt 5 năm qua.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu, đóng vai trò là trụ cột thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Cụ thể, trong tổng vốn đăng ký cấp mới, ngành này chiếm tới 9,17 tỷ USD (tương đương 57,5%). Nếu tính gộp cả vốn đăng ký mới và vốn đăng ký điều chỉnh, tổng vốn đổ vào lĩnh vực chế biến, chế tạo lên tới 16,52 tỷ USD, chiếm 59,9% tổng vốn.
Đây là tín hiệu tích cực cho thấy chất lượng dòng vốn FDI đang đi đúng định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đã đặt ra.
Đáng chú ý, dòng vốn điều chỉnh có sự gia tăng mạnh mẽ, có tới 1.318 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký tăng vốn, với tổng giá trị tăng thêm là 11,62 tỷ USD, tăng 17,0% so với cùng kỳ. Việc các nhà đầu tư hiện hữu liên tục mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh là minh chứng rõ nét nhất cho niềm tin dài hạn vào sự ổn định vĩ mô và tiềm năng tăng trưởng của thị trường Việt Nam.
Bên cạnh đó, vốn thực hiện tăng mạnh, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2024, ước đạt 23,6 tỷ USD. Đây là mức giải ngân cao nhất của 11 tháng trong suốt 5 năm qua (giai đoạn 2021-2025). Trong đó, riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã giải ngân tới 19,56 tỷ USD, chiếm gần 83% tổng vốn thực hiện.

Theo các chuyên gia, hoạt động thu hút vốn FDI đạt kết quả khả quan với nhiều điểm nhấn đáng chú ý, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng kinh tế nói chung. Kết quả này không chỉ phản ánh sức hút của nền kinh tế Việt Nam, mà còn là minh chứng rõ ràng cho những nỗ lực không ngừng nghỉ trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Để duy trì sức hút và vươn lên trong cuộc cạnh tranh thu hút FDI với các nước trong khu vực và dòng vốn tiếp tục chảy vào những lĩnh vực quan trọng trong định hướng phát triển nền kinh tế thời gian tới, theo PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế, Việt Nam cần duy trì thể chế và thực thi ổn định, dự báo được, bảo vệ nhà đầu tư, hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư, đất đai, năng lượng theo hướng ít thay đổi đột ngột, có lộ trình, tham vấn doanh nghiệp.

Về hạ tầng, cần đẩy nhanh việc triển khai cao tốc Bắc – Nam, hệ thống cảng biển, logistics, năng lượng, hoàn thiện quy hoạch khu công nghiệp, khu kinh tế theo cụm ngành chip, ô tô điện, năng lượng sạch. Hạ tầng mềm là hải quan số, một cửa điện tử, chuẩn dữ liệu thống nhất, giúp doanh nghiệp FDI giảm thời gian tuân thủ, tăng độ chắc chắn trong kế hoạch kinh doanh.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút chuyên gia nước ngoài, Việt kiều bằng visa, thủ tục cư trú, trường quốc tế, môi trường sống tốt để hình thành “hệ sinh thái nhân tài”.
Cuối cùng là việc xúc tiến đầu tư có chọn lọc, xây dựng danh mục ngành ưu tiên (công nghệ cao, bán dẫn, năng lượng sạch, logistics, tài chính…) với gói ưu đãi rõ ràng, ổn định 10–15 năm, gắn với cam kết chuyển giao công nghệ và liên kết doanh nghiệp nội địa. Sau cấp phép, tập trung “chăm sóc sau đầu tư” tổ công tác tháo gỡ vướng mắc, đối thoại định kỳ với các doanh nghiệp, hiệp hội FDI để dự án mở rộng, tái đầu tư thay vì rời đi.
“Như vậy, dòng vốn FDI ở lại hay không phụ thuộc vào chất lượng “hợp đồng dài hạn” giữa nhà đầu tư và thể chế – con người – hạ tầng của Việt Nam. Nếu làm tốt 4 trụ cột, kỷ lục giải ngân FDI hiện nay nhiều khả năng mới chỉ là bước khởi đầu”, ông Long nhấn mạnh.
Tiếp tục tập trung các giải pháp đột phá
Chuyển dịch trong chất lượng dòng vốn FDI ngày càng trở nên rõ rệt hơn, nhất là trong giai đoạn 2019-2025. Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) mới diễn ra tại Hà Nội, ông Wakabayashi Koichi, Chủ tịch Hiệp hội Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JCCI) cho biết, các doanh nghiệp Nhật Bản đã chuyển hướng đầu tư từ thâm dụng lao động sang nâng cao giá trị công nghiệp, phát triển nguồn nhân lực và hạ tầng.
“Chúng tôi khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, bao gồm nghiên cứu và phát triển (R&D), nâng cao năng lực và các dự án chuyển đổi năng lượng, nhằm thể hiện cam kết đối với một Việt Nam xanh, có năng lực cạnh tranh và sẵn sàng cho tương lai", ông Wakabayashi Koichi nói.
Tuy nhiên, theo các nhà đầu tư, trong triển khai các chính sách đã ban hành về kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi số…, cần có những giải pháp thực thi cụ thể, đồng bộ để đón đầu dòng vốn quốc tế rất lớn trong lĩnh vực này.
Để các chính sách mới thành công, các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng, cần tăng cường các nền tảng đối thoại thường xuyên giữa Chính phủ và nhà đầu tư, thảo luận cởi mở về tác động chính sách và thách thức trong vận hành. Đồng thời, có các biện pháp pháp lý tạm thời để bảo vệ những dự án đang thực hiện và dự án đã được lên kế hoạch, bảo đảm không bị gián đoạn bởi những thay đổi chính sách đột ngột.
Trao đổi với chúng tôi, ông Hong Sun, Chủ tịch danh dự Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KoCham) cho biết, Việt Nam từ quốc gia thu hút đầu tư công nghiệp sản xuất dệt may, giày dép, túi xách... đã có những bước chuyển đổi trong chính sách thu hút đầu tư công nghệ cao, chất bán dẫn. Theo ông Hong Sun, Việt Nam hội tụ nhiều yếu tố để thu hút nhà đầu tư nước ngoài nói chung và nhà đầu tư Hàn Quốc nói riêng.
Cụ thể, chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam rất cởi mở và quan điểm của Chính phủ, Đảng, nhà nước luôn nỗ lực tạo môi trường đầu tư thuận lợi với nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam cũng là điểm đến với ưu đãi thuế là chính sách rất quan trọng mà các nhà đầu tư nước ngoài luôn quan tâm. Trước thời điểm Việt Nam thực hiện sáp nhập các bộ ngành, Bộ Kế hoạch đầu tư và hiện nay là Bộ Tài chính luôn kịp thời tháo gỡ khó khăn, lắng nghe các ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài, số hoá thủ tục hành chính đơn giản hơn và nhanh hơn.
Quan trọng nhất là nhân lực lao động của Việt Nam, người lao động Việt Nam rất khéo léo, và chịu khó. Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng với dân số lao động đông, là điều kiện phù hợp để phát triển nhanh. Hiện, chi phí nhân công Việt Nam vẫn thấp hơn so với nhiều quốc gia.
Ngoài ra, các yếu tố khác được ông Hong Sun đề cập đến như việc Việt Nam ký kết nhiều FTA, có vị trí địa lý chiến lược ở Đông Nam Á, sự ổn định chính trị, mục tiêu tăng trưởng GDP mức cao, thị trường nội địa đầy tiềm năng với hơn 100 triệu dân và mức chi tiêu “khoẻ” hơn so với thu nhập bình quân đầu người…
Đề xuất chính sách thu hút dòng vốn công nghệ cao, ông Hong Sun cho rằng, nếu các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp bán dẫn xoá bỏ theo nội dung dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi), sẽ tác động đến các mục tiêu trung và dài hạn như chuyển giao công nghệ, mở rộng đầu tư và phát triển nguồn nhân lực.
Đồng thời, ông Hong Sun cho rằng, Việt Nam nên tự tin hơn, cởi mở chính sách cấp visa, thẻ tạm trú với nhà đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nội dung được Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) kiến nghị cải thiện chính sách về thị thực nhập cảnh, được đánh giá là chưa cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực (Thái Lan, Malaysia) vốn có các chính sách miễn thị thực rộng rãi hơn.
Nhiều nhà đầu tư FDI cũng đề xuất Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, tập trung vào các giải pháp đột phá như: cải cách thể chế và thủ tục hành chính, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các địa phương, nâng cao năng lực quản trị môi trường…