Ninh Thuận là tỉnh ven biển cực Nam Trung bộ; với địa hình đa dạng, có điều kiện tự nhiên và địa hình thích hợp với nhiều loài cây dược liệu như: Bách bệnh, Xáo tam phân, Kim ngân hoa, Nghệ đen, Dây khai, Linh chi tím, Sa nhân tím và một số loài cây thuốc chứa hàm lượng tinh dầu cao như Bạc hà, sả, nghệ có giá trị kinh tế cao… Kết quả đề tài khoa học cấp tỉnh về Khảo sát, điều tra cây dược liệu trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận năm 2017 của Trường Đại học Nguyễn Tất Thành đã ghi nhận Ninh Thuận hiện có 1.269 loài cây thuốc, trong đó, đã chỉ ra 82 nguồn gen quý hiếm, đặc trưng, mang tính chất bản địa, cần bảo tồn, phát triển.
Trong những năm qua, nguồn cung dược liệu của Ninh Thuận chủ yếu dựa trên việc thu hái, khai thác từ tự nhiên, chưa chú trọng đến việc gieo trồng, tái sinh. Việc thu hái còn mang tính tự phát và không được quản lý chặt chẽ, dẫn tới tình trạng ngày càng nhiều thương lái từ khắp nơi thu mua ồ ạt một số loại cây thuốc. Việc khai thác tự nhiên dẫn đến nguy cơ suy giảm rất nhanh số lượng và thành phần loài cây thuốc, dược liệu quý ở Ninh Thuận.
Ngoài ra, công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào gieo trồng, sản xuất giống cây thuốc và chế biến sau thu hoạch, bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Trong đó, nguồn giống chủ yếu lấy từ tự nhiên nên không có sự đồng đều; phương pháp gieo trồng thường dựa vào kinh nghiệm cá nhân, chưa có một quy trình chuẩn; cách thức chế biến sau thu hoạch cũng không áp dụng theo quy trình khoa học dẫn tới hàm lượng hoạt chất trong sản phẩm bị hao hụt nhiều, ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm.
Hiệu quả kinh tế từ nguồn thu dược liệu tại tỉnh chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng nguồn cung dược liệu tại địa phương. Đồng thời, vì mục đích thương mại và giá trị cây thuốc cao, việc thu hái, khai thác dược liệu tràn lan, khiến các loài dược liệu tự nhiên cạn kiệt và đối diện nguy cơ tuyệt chủng. Việc trồng, chế biến dược liệu chủ yếu quy mô nhỏ lẻ, mang tính tự phát và giá trị gần như phụ thuộc thị trường thu mua từ Trung Quốc. Ngoài ra, tại tỉnh cũng thiếu vắng doanh nghiệp đầu tư chuỗi giá trị sản xuất, tiêu thụ sản phẩm dược liệu, khiến hiệu quả kinh tế chưa cao…
Trước thực trạng trên, tỉnh Ninh Thuận tập trung phát triển các chủng loại dược liệu hàng hóa, trong đó ưu tiên phát triển các chủng loại dược liệu có lợi thế cạnh tranh lớn nhờ phù hợp các tiểu vùng khí hậu, đặc biệt là các sản phẩm có thế mạnh của địa phương. Phát triển các loại cây dược liệu trong định hướng gồm 25 loại: Bách bệnh, Bách bộ, Sả, Sa nhân tím, Sâm cau, Địa liền, Gấm núi, Bòng bòng dẻo, Dây đau xương, Lô hội, Hà thủ ô đỏ, Đinh lăng, Dây khai, Sâm bố chính, Linh chi tím, Bạc hà, Nghệ , Dây thần thông, Chuối cô đơn, Kim ngân hoa, Râu mèo, Cốt toái bổ, Bách bộ, Lan gấm, Cẩu tích.
Đồng thời, phát triển cây dược liệu phải phù hợp với định hướng của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các quy hoạch ngành, lĩnh vực liên quan; hình thành các vùng trồng cây dược liệu để phát triển ổn định, lâu dài; tạo sự liên kết chặt chẽ, ổn định theo chuỗi giá trị từ trồng, chăm sóc, thu hoạch gắn với chế biến, tiêu thụ đảm bảo phát triển cây dược liệu bền vững, hiệu quả.
Tại Kế hoạch phát triển cây dược liệu tỉnh Ninh Thuận đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030, tỉnh Ninh Thuận hướng đến mục tiêu bảo tồn và khai thác bền vững 82 nguồn gen quý hiếm, đặc trưng của tỉnh. Phát triển 25 cây dược liệu quý, đặc hữu với qui mô lớn đáp ứng nhu cầu thị trường. Phát triển 60 cây dược liệu với qui mô lớn phục vụ khám chữa bệnh bằng bài thuốc gia truyền của đồng bào Chăm, xã Xuân Hải. Xây dựng được vùng trồng sản xuất dược liệu có 01 - 02 chuỗi liên kết nghiên cứu, nuôi trồng, chế biến sản xuất các dược liệu quý, đặc hữu với qui mô lớn đáp ứng nhu cầu thị trường, tuân thủ nguyên tắc, tiêu chuẩn Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc của Tổ chức Y tế thế giới (GACP-WHO), sản xuất công nghệ cao.
Định hướng đến năm 2030, trên cơ sở kết quả triển khai thực hiện việc phát triển cây dược liệu đến năm 2025, tiếp tục mở rộng diện tích và chủng loại 25 dược liệu hàng hóa trong giai đoạn 2025; Di thực 05 đến 10 cây dược liệu quý phù hợp điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của Ninh Thuận, phát triển thành sản phẩm hàng hóa qui mô lớn đáp ứng nhu cầu thị trường. Tiếp tục kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy chế biến dược liệu, sản xuất thuốc từ dược liệu, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm.
Nhằm nâng cao hiệu quả triển khai các mục tiêu trên, UBND tỉnh chỉ đạo các sở ngành chức năng, các địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp. Trong đó, về đất đai phát triển cây dược liệu phải nằm trong vùng quy hoạch sản xuất nông nghiệp được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Các đối tượng đất nghiên cứu phát triển cây dược liệu hàng hóa: Đất trồng cây hàng năm là đối tượng phù hợp với nhiều chủng loại cây dược liệu như: Bạc hà, Sả, Nghệ, Lô hội, Râu mèo, Sâm bố chính, Đinh lăng, Chuối cô đơn, Kim ngân hoa, Hà thủ ô đỏ và các dược liệu. Trong loại đất này cần chú ý chuyển dịch cơ cấu cây trồng phù hợp khi cây trồng hằng năm khác không hiệu quả thì chuyển sang trồng cây dược liệu.
Đất lâm nghiệp là đối tượng nghiên cứu và có tiềm năng lớn nhất cho phát triển cây dược liệu, diện tích của đối tượng này chiếm diện tích lớn trong cơ cấu diện tích nghiên cứu phát triển như: Bách bệnh, Bách bộ, Xáo tam phân. Cây dược liệu có nhiều chủng loại, đặc điểm thích nghi khác nhau, nhiều loại chỉ thích hợp phát triển dưới tán rừng như Sa nhân tím, Sâm cau, Địa liền, Gấm núi, Bòng bòng dẻo, Dây đau xương, Dây khai, Dây thần thông, Cốt toái bổ, Linh chi tím, Lan gấm.
Việc quản lý được nguồn cung ứng đầu vào cho sản xuất cây dược liệu trên địa bàn tỉnh là yêu cầu cần thiết để xây dựng các vùng sản xuất cây dược liệu tập trung đạt nguyên tắc, tiêu chuẩn thực hành trồng trọt và thu hái dược liệu theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (GACP - WHO). Phương án quản lý nguồn cung ứng đầu vào cho sản xuất cây dược liệu tập trung cây dược liệu có chủng loại đa dạng, đa số đều có thể tự để giống, nhân trong tự nhiên hoặc nhân giống bằng các tiến bộ kỹ thuật (nuôi cấy mô tế bào...). Tuy nhiên, khi triển khai phát triển với quy mô và diện tích lớn, nhu cầu về giống cây dược liệu sẽ tăng lên và các phương thức nhân giống hiện tại của người dân sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất.
Chính vì vậy, việc kiểm soát được nguồn giống đầu vào trong sản xuất là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm dược liệu, đây cũng là yêu cầu bắt buộc với vùng dược liệu đạt tiêu chuẩn GACP-WHO. Nguồn cung ứng giống qua hệ thống quản lý, giám sát của nhà nước: Đây là những đơn vị, tổ chức kinh doanh giống có đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước và có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật trong việc cung ứng giống dược liệu có chất lượng tốt cho thị trường. Do vậy cần xây dựng hệ thống vườn ươm cây con giống ngay tại các vùng tập trung để đáp ứng nhanh nhu cầu sản xuất.
Áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất giống, chăm sóc, thu hái và bảo quản, nâng cao chất lượng chế biến theo các tiêu chuẩn đã được Bộ Y tế ban hành. Xây dựng các mô hình ứng dụng các công nghệ mới, tiên tiến trong sản xuất. Tăng cường công tác khuyến nông, hướng dẫn người sản xuất thực hiện đúng quy trình kỹ thuật về canh tác, thu hái, bảo quản để duy trì và nâng cao sản xuất, chất lượng sản phẩm.
Xây dựng hệ thống thu gom, sơ chế và bảo quản dược liệu tại mỗi vùng phát triển tập trung. Vị trí khu thu gom, sơ chế đặt gần các vùng nguyên liệu để thuận tiện cho việc tập kết và sơ chế, bảo quản. Mỗi vùng (một xã hoặc một vài xã có diện tích cây dược liệu) bố trí một khu tập kết, thu gom và sơ chế, bảo quản cây dược liệu. Quy mô tùy theo vùng sản xuất. Thực hiện tiêu thụ sản phẩm qua các kênh: Các tổ chức kinh tế là các công ty kinh doanh dược liệu; các hình thức liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; Công ty thương mại... với việc hợp đồng, bao tiêu sản phẩm.
Hình thức tiêu thụ sản phẩm qua các kênh giúp cho việc sản xuất được chuyên môn hóa trong từng khâu, từng lĩnh vực sản xuất, từ đó giúp cho thị trường sản xuất và tiêu thụ phát triển ổn định và bền vững. Đây cũng là hình thức tiêu thụ giúp cho vùng sản xuất cây dược liệu dần đi vào chuẩn hóa để quản lý được chất lượng sản phẩm đầu ra khi tiêu thụ trên thị trường. Xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu cho các loại cây dược liệu, các sản phẩm chế biến từ nguồn dược liệu được nuôi trồng, sản xuất chế biến từ nguồn các loại cây dược liệu của tỉnh để góp phần quảng bá và nâng cao giá trị, hiệu quả kinh tế cho người sản xuất, chế biến và tiêu thụ./.