Những câu chuyện sống động và đầy xúc cảm này, hẳn sẽ khơi gợi lên trong lòng người đọc những nỗi niềm suy tư, những duy nghiệm cho riêng mình. Để rồi mỗi chúng ta đều nhận ra một chân lý rằng: Hành trang đi tìm hạnh phúc trong đời này chính là sự yêu thương, sẻ chia…
Hãy cùng đi dọc con đường trải nghiệm mà nhà văn đã ghi lại bằng những câu chữ đầy nắng gió vùng Đất Tổ quê chị, đầy sương mù bảng lảng của vùng núi Sapa, nơi chị gắn bó nhiều năm.
Đó là những truyện ngắn: Hai chén rượu đầy, Chân gỗ, Chị Dương, Bên kia dòng sông mây, Mùi rừng, Nghiệp đình, Cây sa mộc chết đứng, Tiếng vó ngựa xa, Mừng cụ khỏi ốm, Cuộc sống khác, Tre trắng, Rộc Xoan, Quả trái mùa, Bộ quân phục mới, Thủy Hồ.
Có những cảm giác xúc động và xót xa, khắc khoải và day dứt, đắng đót và tuyệt vọng… nhưng tất cả những yếu tố ấy không làm nên sự bi lụy, đau thương mà dường như nó lại càng làm đầy đặn thêm tình yêu thương đan xen với sự thấu cảm, bao dung dấy lên mạnh mẽ trong lòng người. Đó là cảm xúc khi ta đọc tập truyện ngắn “Thủy Hồ” của nhà văn Tống Ngọc Hân.
Tập truyện ngắn thứ 10 trong sự nghiệp sáng tác văn học của nữ nhà văn này như thường lệ vẫn đem đến cho độc giả ánh nhìn cảm quan về muôn mặt đời sống, về những góc khuất nhân tâm và nhất là về bản sắc văn hóa, tình cảm con người, hình ảnh thiên nhiên… của hai vùng đất mà chị từng sinh sống là Phú Thọ và Sa Pa. Không gian trong các truyện ngắn của chị dù được mô tả theo cách nào cũng vô cùng quyến rũ, khoáng đạt. Những nhân vật sống đi lại gần gũi như đâu đó quanh ta.
Nhà thơ Trần Hồng Giang nhận định về các truyện ngắn của Tống Ngọc Hân trong Thủy Hồ:
“Một Sa Pa không chỉ là một danh thắng khoáng đạt và huyền ảo như ta thường thấy, mà nó còn hiện lên với một không gian thật trong trẻo, đắm mê: “Một đám đông bu quanh mấy cô cậu người Mông bản địa đang hát múa. Sương mù lại vây lấy đám đông, chỉ còn tiếng khèn là sương không làm gì được. Càng mù càng đê mê, phấn chấn. Như thế gọi là chợ tình.” (Bên kia dòng sông mây). Rồi thì: “Thị trấn này có gì không? Cái hồ nước rộng mênh mông kia, từng rất đẹp, mặt nước lãng đãng sương khói và những chiếc thuyền câu nhỏ xíu như cánh nhạn ở đường chân trời.” (Thủy Hồ). Và nữa: “Càng đi thấy rừng dày hơn, trời rộng hơn và núi cao hơn. Tới đây, núi thành vách dựng. Sông biến thành suối. Nước suối trong như sương. Khói biến thành mây, mây chồng mây cao hơn thác nước.” (Tiếng vó ngựa xa). Tương tự như vậy, cảnh sắc miền đất trung du không chỉ hiện diện với những rừng cọ đồi chè quen thuộc, mà ta thấy có những hình ảnh đầy mới lạ, khác biệt: “Xoan ở rộc Hèn mùa này trút lá, những cành cây khẳng khiu trơ trọi. Bọn chào mào ở đâu kéo về "rét thật, rét thật" rinh ran suốt mỗi ban mai trước khi bay đi tìm khu vườn khác. Như thể chúng kêu là để cây cối sốt ruột mà nảy chồi.” (Rộc xoan). Và có cả một trung du mang sắc thái hiền hòa, không khác nhiều với những miền quê châu thổ: “Bãi bồi nằm giữa sông và lệch về phía Soi Hà nên dòng sông chỗ này hẹp. Hẹp nhưng lại rất sâu. Từ bến đò đi lên, hoa củ cải nở trắng. Những luống cải đường người ta ươm hoa làm giống có củ to nhô lên khỏi mặt đất cả gang tay. Tôi chạy xe chầm chậm giữa vùng hoa trắng thơm dịu mà có cảm giác như đang bay lên.” (Chị Dương)”
Chúng ta đọc Thủy Hồ trong thời điểm này, để thêm khát vọng bảo vệ thiên nhiên và con người.