Sản phẩm OCOP khơi dậy tiềm năng xứ Thanh, tạo sinh kế cho người dân nông thôn

Trong những năm qua, việc triển khai Chương trình OCOP không chỉ khơi dậy tiềm năng, lợi thế khu vực nông thôn mà còn góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. Qua đó, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, góp phần xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững.
1-1715394090.jpg
Mô hình sản xuất dưa vàng nhà màng nhà lưới tại Nga Sơn đạt hiệu quả kinh tế cao.

Sản phẩm OCOP được khởi xướng ở Oita, Nhật Bản vào năm 1979, nhằm khuyến khích mỗi làng lựa chọn và phát triển một sản phẩm đặc biệt để phát triển kinh tế, xã hội khu vực nông thôn theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị, chú trọng các nguồn lực tại chỗ sẵn có làm động lực phát triển kinh tế. Đến nay đã có hơn 40 quốc gia ứng dụng và triển khai thành công.

Tại Việt Nam, sau 6 năm triển khai thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững, đưa ngành nông nghiệp trở thành trụ đỡ của nền kinh tế quốc gia.

Chủ thể sáng tạo – Chính quyền “nâng đỡ”

Tại Thanh Hóa, đây là địa phương có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, với gần 200 làng nghề truyền thống và hơn 600 hợp tác xã (HTX) nông nghiệp. Sau 6 năm thực hiện Chương trình OCOP đã tạo được bước chuyển biến rõ nét trong phát huy thế mạnh vùng miền. Đến nay toàn tỉnh đã có 479 sản phẩm OCOP. Trong đó có 23 sản phẩm OCOP được xuất khẩu như: mắm tôm, mắm tép Lê Gia xuất khẩu vào thị trường Nga, Hàn Quốc, Đài Loan và Nam Phi; Sản phẩm từ tre của Công ty TNHH sản xuất và thương mại BambooVina xuất khẩu đi các thị trường EU, Mỹ; dứa, ngô ngọt đóng hộp Trường Tùng xuất khẩu đi các nước EU…

Trước đây, ngành nông nghiệp của tỉnh chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng, một số nơi chuyển sang sản xuất hàng hóa nhưng hiệu quả đem lại không nhiều, do chất lượng, mẫu mã, hình thức kinh doanh còn đơn điệu. Tuy nhiên, từ khi triển khai thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm, các chủ thể đã tích cực sáng tạo, đầu tư nâng cấp sản phẩm, trở thành thương hiệu của vùng miền, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Đặc biệt, tại các xã thuộc khu vực miền núi, điều kiện thuận lợi để khai thác du lịch sinh thái cộng đồng và phát triển các mô hình dược liệu dưới tán lá rừng. Ngay sau khi Chương trình OCOP được triển khai, các địa phương đã chủ động đăng ký tham gia. Chuyển đổi từ sản xuất thô sang chế biến để nâng cao giá trị, giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở địa phương.

ocop-thanh-hoa-01-1715398073.jpg
Trong năm 2024, Thanh Hóa phấn đấu có thêm 120 sản phẩm OCOP, trong đó có 3 sản phẩm đạt 5 sao.

Đơn cử như HTX Nông Lâm Thành Chung xã Quang Chiểu (huyện Mường Lát) với sản phẩm OCOP gạo nếp Cay Nọi. Xã Quang Chiểu có khoảng 400ha đất nông nghiệp thì có 300ha trồng gạo nếp Cay Nọi. Trước đây, người dân chủ yếu sản xuất phục vụ nhu cầu của gia đình, từ khi có Chương trình OCOP, HTX Thành Chung đã quy hoạch vùng nguyên liệu, tập trung sản xuất “sạch”, đưa gạo nếp của quê hương thành sản phẩm OCOP. Từ đó, giá trị sản phẩm không ngừng được nâng cao.

Bà Lương Thị Nông Giám đốc HTX nông lâm Chung Thành cho biết: “Gạo nếp Cay Nọi có vị thơm, độ dẻo hơn so với giống khác nên được bà con lấy giống từ Lào về sản xuất để phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Từ khi gạo Cay Nọi được công nhận là sản phẩm OCOP, gạo nếp Cay Nọi đã trở thành sản phẩm nông nghiệp hàng hóa được thị trường ưa chuộng thì cuộc sống của những nông dân chân lấm tay bùn được đổi thay từng ngày. Sản phẩm thu hoạch đến đâu tiêu thụ hết đến đấy, thậm chí nhiều thương lái còn phải vào tận nơi đặt tiền trước mới mua được”.

Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào OCOP

Nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, giúp sản phẩm của vùng quê có thể cạnh tranh được với các sản phẩm nhập khẩu, những năm qua, các chủ thể sản phẩm OCOP đã chủ động đầu tư mua sắm trang thiết bị, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại vào trong sản xuất để nâng cao giá trị sản phẩm.

Đơn cử như anh Nguyễn Văn Tuấn, chủ thể sở hữu 6 sản phẩm OCOP về Đông trùng hạ thảo tại huyện Nga Sơn. Năm 2018, anh Nguyễn Văn Tuấn đã đầu tư hơn 1 tỷ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng với diện tích 200 m2 và các thiết bị kỹ thuật cho việc nuôi cấy đông trùng hạ thảo như: Máy lắc, nồi hấp, điều hòa, giá nuôi… để nâng cao năng suất, chất lượng cho sản phẩm.

2-1715394219.jpg
HTX Chè Bình Sơn sản xuất theo quy trình VietGAP gắn với phát triển du lịch sinh thái cộng đồng.

Không chỉ có vậy, anh Tuấn còn tích cực nghiên cứu để nâng cao chất lượng, thay đổi mẫu mã sản phẩm, mở rộng các kênh phân phối, đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, bán hàng online trên các nền tảng mạng xã hội như facebook, zalo… nhằm thích ứng với những khó khăn đến từ sự cạnh tranh trên thị trường ngày nay.

Với mục tiêu khuyến khích, hỗ trợ các đối tượng sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ và vừa khai thác tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy tổ chức sản xuất, mở rộng thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm, đến nay 100% đơn vị cấp huyện đã xây dựng được sản phẩm OCOP, với tổng số 396 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên. Trong đó, có 1 sản phẩm 5 sao và 3 sản phẩm “tiềm năng” 5 sao. Tỉnh Thanh Hóa nằm trong tốp dẫn đầu của cả nước về số lượng sản phẩm OCOP, mỗi sản phẩm đều được lựa chọn kỹ càng, mang đặc trưng, lợi thế và phát huy được sức mạnh của cộng đồng. Tiêu biểu như nước mắm, mắm tôm, mắm tép Lê Gia; nước mắm Khúc Phụ; các sản phẩm cói Nga Sơn, bánh lá răng bừa Hà Lai, bánh răng bừa Xuân Lập, chè xanh sạch Bình Sơn...

Cùng với đó, các sản phẩm OCOP của tỉnh đều được sản xuất theo các tiêu chuẩn ISO, HACCP, VietGAP, GlobalGAP, có tem truy xuất nguồn gốc, mẫu mã, bao bì đẹp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường, trong đó có thị trường xuất khẩu.

Cũng là một trong những chủ thể có nhiều sản phẩm OCOP từ cói được xuất khẩu sang các thị trường khó tính, Giám đốc Công ty CP Sản xuất, chế biến cói xuất khẩu Việt Anh Phạm Minh Tôn chia sẻ: Để có được sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, ngoài chất lượng, mẫu mã đẹp thì đòi hỏi phải có vùng sản xuất nguyên liệu ổn định, bền vững, quy trình sản xuất bảo đảm vệ sinh môi trường; không gian làm việc đúng kích thước tiêu chuẩn, môi trường làm việc an toàn, nhất là đối với sức khỏe của người lao động...

Đặc biệt, tại các xã miền núi, nhiều người còn chưa hiểu thế nào là chuyển đổi số, không biết cách giới thiệu sản phẩm, không biết bán hàng trên trang thương mại điện tử… Tuy nhiên từ khi khi sản phẩm của họ được công nhận là sản phẩm OCOP, thông qua các lớp tập huấn, họ đã tự tin livestream bán hàng giới thiệu sản phẩm qua các sàn thương mại. Đặc biệt sử dụng thành thạo các app vận chuyển, quản lý được đơn hàng và khách hàng, tiết kiệm thời gian và chi phí.

Ông Lê Văn Tú Giám đốc HTX chè Bình Sơn chia sẻ: Nhận thức được vai trò và lợi ích của chuyển đổi số nên HTX đã thực hiện chuyển đổi số một cách linh hoạt, phù hợp, đạt hiệu quả cao, tiết giảm chi phí, tối ưu nguồn nhân lực. Đồng thời góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng tối đa sức lao động, gia tăng giá trị sản phẩm và tiếp cận nhanh với thị trường và gắn với chuỗi giá trị.

Trong khâu sản xuất chế biến sản phẩm, HTX đã chuyển đổi từ sản xuất, chế biến thủ công sang sử dụng các máy móc, thiết bị hiện đại như: Máy hút chân không, phòng lạnh bảo quản, hệ thống sao sấy bằng điện… Ngoài ra, HTX cũng đã ứng dụng các phần mềm quản lý văn bản và theo dõi công văn, sử dụng phần mềm hệ thống quản lý bán hàng KiotViet, giúp quản lý đơn hàng một cách dễ dàng”.

Từ thực tế trên cho thấy, Chương trình OCOP không chỉ khơi dậy tiềm năng, lợi thế khu vực nông thôn mà còn góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. Qua đó, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, góp phần xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững./.

Hà Khải