
Tín hiệu NIM tạo đáy
Dữ liệu tổng hợp từ báo cáo tài chính quý III/2025 của các ngân hàng cho thấy, lợi nhuận sau thuế của ngành ngân hàng trong quý III tăng 24,9% so với cùng kỳ và là mức tăng cao nhất trong 7 quý gần đây nhờ thu nhập ngoài lãi tăng mạnh (đáng chú ý tại VPBank, Vietinbank, SHB) và chi phí dự phòng giảm (tại Vietinbank, Sacombank, BVBank, OCB).
Tuy nhiên, lợi nhuận “lõi” quý III của các ngân hàng đã chững lại so với mức đỉnh của quý II (giảm 1,6%) do chịu áp lực kép từ tăng trưởng tín dụng chậm lại - tăng 4% so với quý II, giảm tốc so với mức tăng 6,3% của quý II so với quý I - ghi nhận giảm ở nhóm TMCP nhà nước (BIDV, Vietcombank, Vietinbank) và các ngân hàng tư nhân lớn (Techcombank, MB, VPBank, HDBank).
Đồng thời, biên lãi ròng (NIM - Net Interest Margin) của các ngân hàng cũng hồi phục chậm, thậm chí thu hẹp do áp lực huy động tăng (tỷ lệ huy động/tín dụng đạt mức cao kỷ lục 111%) trong khi lãi suất cho vay chưa được điều chỉnh tương ứng.

Theo dữ liệu của FiinGroup, NIM bình quân của 27 ngân hàng trong quý III/2025 là 3,0%, lần lượt giảm 0,1 điểm phần trăm so với quý II/2025 và 0,3 điểm phần trăm giảm so với quý III năm trước. Đây cũng là mức NIM bình quân thấp nhất kể từ quý IV/2018.
Trong đó, NIM của nhóm ngân hàng Nhà nước (Vietcombank, BIDV, Vietinbank) vẫn neo ở vùng đáy 2,0%-2,6% do phải ưu tiên duy trì mặt bằng lãi suất cho vay thấp dù chi phí huy động tăng nhanh.
NIM bình quân của các NHTM tư nhân cũng giảm từ mức 3,6% trong quý II về mức đáy 3,4% trong quý này. Trong đó, NIM của SHB ghi nhận giảm 2 điểm phần trăm so với quý II/2025 và 2,1 điểm phần trăm so với quý II năm ngoái; NIM của HDB cũng giảm -1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ 2024 và so với quý II/2025.
Ngược lại, nhiều ngân hàng tư nhân tiếp tục hồi phục NIM, nổi bật có Sacombank, VPBank, OCB, MB, VIB nhờ duy trì tăng trưởng tín dụng và tỷ trọng cho vay bán lẻ cao; riêng Sacombank được hỗ trợ thêm từ khoản thu nhập lãi ghi nhận lại từ các khoản tái cơ cấu liên quan đến khu công nghiệp Phong Phú.
VPBank là ngân hàng có hệ số NIM cao nhất, đạt 5,2%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với quý II nhưng vẫn giảm 0,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ. HDBank xếp thứ hai trong hệ thống với NIM ở mức 4,2% (giảm 1,2 điểm phần trăm so với quý II và cùng kỳ), kế đến là MB (4%, hồi phục nhẹ 0,1 điểm phần trăm so với quý II), Sacombank (3,7%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý II), Techcombank duy trì NIM ở mức 3,7%, MSB (3,3%, tăng nhẹ 0,1 điểm phần trăm)…
NIM giảm, lợi nhuận vẫn tăng nhờ đâu?
Dù NIM có tín hiệu tạo đáy và ghi nhận hồi phục ở một số ngân hàng nhưng chuyên gia của Chứng khoán BIDV (BSC) cho rằng xu hướng NIM khó có thể quay trở lại thời kỳ hoàng kim trung bình ngành trên 4%.
Thời gian qua, NIM của các ngân hàng duy trì ở mức thấp khi áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng gia tăng, đồng thời đảm bảo yêu cầu giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế. Các ngân hàng chấp nhận NIM mỏng hơn để theo đuổi mục tiêu tăng cường sức cạnh tranh và duy trì mặt bằng lãi suất cho vay ở mức thấp nhằm thu hút thêm khách hàng mới và giữ chân khách hàng hiện hữu, qua đó gia tăng quy mô và thị phần.
Trong bối cảnh tỷ lệ cho vay/huy động (LDR) của nhiều ngân hàng đã vượt 100% (toàn ngành vượt 110%), để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng trong quý cuối năm, các NHTM đã bắt đầu tăng lãi suất huy động. Điều này, có thể khiến chi phí vốn của các ngân hàng tăng, trong khi lãi suất cho vay chưa thể tăng tương ứng, dẫn đến NIM tạm thời vẫn bị thu hẹp.

Báo cáo mới đây của Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho biết lãi suất huy động tại các ngân hàng TMCP trong tháng 10 đã tăng nhẹ tại các kỳ hạn 6-12 tháng (tăng khoảng 0,03-0,08 điểm % so với tháng 9) chủ yếu do áp lực thanh khoản trong hệ thống ngân hàng gia tăng khi tín dụng dự kiến bứt tốc mạnh vào giai đoạn cuối năm, với mức tăng trưởng cả năm ước đạt 18-20%; rủi ro tỷ giá USD/VND vẫn hiện hữu khi nhu cầu ngoại tệ tăng vào mùa cao điểm nhập khẩu cuối năm.
Theo ghi nhận, bước sang tháng 11, “cuộc đua” tăng lãi suất huy động càng “nóng” hơn khi hàng loạt NHTM, chủ yếu thuộc nhóm vốn hóa nhỏ, đồng loạt điều chỉnh tăng lãi suất tiết kiệm cá nhân.
VCBS cho rằng đà tăng của lãi suất huy động dự báo sẽ kéo theo lãi suất cho vay nhích tăng nhẹ trở lại trong thời gian tới, khi NIM của hệ thống bị thu hẹp đáng kể, sau một thời gian điều chỉnh giảm theo chỉ đạo của Chính Phủ.
Tuy nhiên, VCBS đánh giá mặt bằng lãi suất nhìn chung vẫn được kỳ vọng duy trì ở vùng thấp, chủ yếu nhằm cân bằng giữa mục tiêu duy trì NIM hợp lý và kiểm soát rủi ro hệ thống, đồng thời tiếp tục hỗ trợ khu vực sản xuất - kinh doanh, đặc biệt các lĩnh vực ưu tiên, phù hợp với định hướng chính sách của Chính Phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Đồng quan, BSC cho rằng, để bảo vệ NIM, nhiều ngân hàng, đặc biệt là nhóm tư nhân có vị thế trong ngành, đã chủ động tăng lãi suất cho vay trở lại thời gian qua. Trong thời gian tới, xu hướng này được kỳ vọng đem lại tín hiệu khởi sắc cho các ngân hàng quốc doanh vì đây là nhóm đã chịu nhiều hi sinh qua các gói cho vay lãi ưu đãi. Điển hình là cả Vietcombank và BIDV đã đồng loạt dừng triển khai gói cho vay mua nhà cố định lãi suất 3 năm đầu (mà thay vào đó cố định kỳ hạn ngắn hơn, trong khoảng 1-2 năm).
Bên cạnh đó, để cải thiện NIM, nhiều ngân hàng cũng đã chủ động cắt giảm chi phí hoạt động (CIR) thông qua đẩy mạnh chuyển đổi số, đóng cửa bớt các phòng giao dịch, chi nhánh vật lý không hiệu quả và thay thế bằng các nền tảng tự động hóa, ứng dụng ngân hàng số. Nhờ đó, chi phí cố định và chi phí vận hành đã giảm đi đáng kể. Phần chi phí tiết kiệm được này chính là nguồn lực để các ngân hàng bù đắp cho phần NIM bị giảm đi.

Thực tế, dù NIM giảm, song lợi nhuận ngành ngân hàng thời gian qua vẫn ổn định nhờ dư nợ tăng mạnh, thu nhập dịch vụ mở rộng và chi phí hoạt động được kiểm soát. Các ngân hàng lớn có nền vốn rẻ, hệ sinh thái thanh toán số và danh mục bán lẻ đa dạng duy trì lợi thế, giúp tác động suy giảm NIM được hấp thụ tốt.
Theo BSC, nhiều ngân hàng đang tập trung cải thiện nguồn thu ngoài lãi qua việc mở rộng hệ sinh thái bán chéo, điển hình là thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ trong cùng hệ sinh thái. Sau khi Techcombank thành lập TCLife, VPBank cũng đã có kế hoạch thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ, và dự kiến còn nhiều ngân hàng khác cũng sẽ dần đi theo xu hướng này như VIB.
Dù mảng bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam duy trì tăng trưởng tương đối ổn định so với quy mô GDP trong nhiều năm qua (tỷ lệ thâm nhập duy trì ổn định trong khoảng 0,65-0,75%), mảng bảo hiểm nhân thọ vẫn đang phục hồi chậm, ước tính tỷ lệ thâm nhập đến cuối quý II/2025 mới ở mức >1,2% so với đỉnh 1,9% giai đoạn 2021- 2022. Bên cạnh đó, với kế hoạch tăng trưởng GDP 2026 đạt khoảng 10% và GDP bình quân đầu người 5.400-5.500 USD, mảng bảo hiểm không thiếu dư địa thị trường để phát triển, yếu tố quan trọng nhất vẫn là khả năng thực thi.
Ngoài ra, BSC cho rằng các mảng kinh doanh mới như sàn giao dịch vàng và sàn giao dịch tài sản mã hóa sẽ là động lực trong dài hạn, dù giai đoạn đầu thí điểm sẽ mất nhiều thời gian và chi phí để nghiên cứu sản phẩm và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, từ đó triển khai trên tinh thần thận trọng và chưa thể đóng góp nhiều vào kết quả kinh doanh của các ngân hàng trong ngắn hạn.