Bà Sương Nguyệt Anh (1864 - 1922) sinh tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bà là con gái thứ tư (cho nên trong gia tộc thường gọi bà là Năm Hạnh) của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Mẹ là bà Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba thuộc huyện Cần Giuộc. Tên thật của bà là Nguyễn Thị Khuê (theo "Nguyễn chi thế phổ"), nhưng tên ghi trên bia mộ lại là Nguyễn Ngọc Khuê, tự là Nguyệt Anh. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu khác như Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh...
Năm 1888, bà Sương Nguyệt Anh 24 tuổi thì cha mất. Tri phủ Ba Tường - ông Phủ Xuyên đến hỏi bà làm vợ không được nên mang lòng oán hận, đang tìm cách hãm hại. Để tránh tai họa, bà cùng gia đình người anh (Nguyễn Đình Chúc) chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi rời về Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở đây, bà kết duyên với một Phó tổng sở góa vợ tên Nguyễn Công Tính (có sách ghi Nguyễn Công Trinh, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Công Tín), sau đó sinh được cô con gái là Nguyễn Thị Vinh.
Cuộc hôn nhân đẹp đẽ đã sớm kết thúc bi thảm khi ông Tính bị Phủ Xuyên âm mưu sát hại. Chồng chết khi con gái vừa tròn 2 tuổi, bà tuy mới 30 nhưng không đi thêm bước nữa, thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy chữ Nho cho học trò trong vùng để sinh sống. Cũng từ đó, bà thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ "Sương", thành "Sương Nguyệt Anh", có nghĩa là "Nguyệt Anh góa chồng".
Những năm 1906-1908, hưởng ứng phong trào Đông Du của Phan Bội Châu bà bán một phần điền sản và vận động quyên góp để giúp học sinh xuất dương sang Nhật du học. Năm 1917, bà Sương Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ yêu nước mời làm chủ bút tờ "Nữ giới chung" nghĩa là "Tiếng chuông của nữ giới". Đây là tờ báo đầu tiên dành cho những vấn đề của nữ giới ở Việt Nam. Tờ báo ra số đầu tiên ngày 1/2/1918, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương, đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội. Trong số mở đầu, bà chủ bút nói rõ mục đích của tờ báo là truyền bá chữ Quốc ngữ, nâng cao luân lý, dạy cách sống hằng ngày, chú trọng đến thương mại và tiểu công nghệ, tạo sự tiếp xúc giữa những con người với nhau.
Suốt 20 số báo, bà Sương Nguyệt Anh dành trọn cả tài năng và tâm huyết của mình để góp phần làm chấn hưng tinh thần nữ giới nước nhà. Chính vì những số báo phát hành đều đề cập đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán luật lệ khắt khe với nữ giới thời đó, đồng thời chủ trương đấu tranh mạnh mẽ cho vấn đề bình đẳng nam nữ. Ngòi bút của bà Sương Nguyệt Anh dù có khéo léo đến đâu thì tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại. Sau gần một năm hoạt động, xuất bản được hơn 20 số báo, tháng 7/1918, tờ báo đã bị chính quyền thuộc Pháp đình bản.
Sau đó, mắt bà bị bệnh thường xuyên đau nhức và sức khỏe cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy thuốc, bà Sương Nguyệt Anh dẫn cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Hoà (Ba Tri), nương náu nơi nhà người em út tên là Nguyễn Đình Chiêm để chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi mắt bà bị mù lòa hẳn. Từ đấy, sớm chiều bà lại tiếp tục dò dẫm bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn. Sáng sớm 12 tháng Chạp năm Tân Dậu (tức ngày 9/1/1922), do sức khỏe quá yếu, bà Sương Nguyệt Anh trút đã hơi thở cuối cùng, thọ 58 tuổi. Lúc đầu, mộ bà Sương Nguyệt Anh ở Mỹ Nhơn, về sau (năm 1959) được đồng bào cải táng rời về nằm cạnh mộ phần của song thân bà, tức nằm trong khu đền thờ và mộ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu ngày nay.